(Ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1982)
CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN CỦA CÔNG ƯỚC
Với lòng mong muốn giải quyết, trên tinh thần hiểu biết và
hợp tác với nhau, mọi vấn đề liên quan đến luật biển, và ý thức được tầm vóc
lịch sử của Công ước là một cống hiến quan trọng vào việc giữ gìn hòa bình,
công lý và tiến bộ cho tất cả các dân tộc trên thế giới;
Nhận thấy rằng, những sự kiện mới nảy sinh kể từ các Hội
nghị của Liên hợp quốc về luật biển được nhóm họp tại Giơnevơ năm 1958 và năm
1960, đã làm tăng thêm sự cần thiết phải có một Công ước mới về luật biển có
thể được mọi người chấp nhận;
Ý thức rằng, những vấn đề về các vùng biển có liên quan chặt
chẽ với nhau và cần được xem xét một cách đồng bộ;
Thừa nhận rằng, điều đáng mong muốn là, bằng Công ước với sự
quan tâm đúng mức đến chủ quyền của tất cả các quốc gia, thiết lập được một
trật tự pháp lý cho các biển và đại dương làm dễ dàng cho việc sử dụng công
bằng và hiệu quả những tài nguyên, việc bảo tồn những nguồn lợi sinh vật của
các biển và các đại dương, việc nghiên cứu, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
Cho rằng, việc thực hiện các mục tiêu này sẽ góp phần thiết
lập nên một trật tự kinh tế quốc tế đúng đắn và công bằng, trong đó có tính đến
các lợi ích và nhu cầu của toàn thể loài người và đặc biệt là các lợi ích và
nhu cầu riêng của các nước đang phát triển, dù có biển hay không có biển;
Mong muốn phát triển bằng Công ước, các nguyên tắc trong
Nghị quyết 2749 (XXV) ngày 17 tháng 12 năm 1970, trong đó Đại hội đồng Liên hợp
quốc đã đặc biệt trịnh trọng tuyên bố rằng khu vực đáy biển và đại dương, cũng
như lòng đất dưới đáy các khu vực nằm ngoài giới hạn chung của loài người và
việc thăm dò, khai thác khu vực này sẽ được tiến hành vì lợi ích của toàn thể loài
người, không phụ thuộc vào vị trí địa lý của các quốc gia;
Tin tưởng rằng, việc pháp điển hóa và sự phát triển theo
chiều hướng tiến hóa của Luật biển được thực hiện trong Công ước sẽ góp phần
tăng cường hòa bình, an ninh, hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa tất cả các dân
tộc phù hợp với các nguyên tắc công bằng và bình đẳng về quyền, và sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho tiến bộ về kinh tế và xã hội của tất cả các dân tộc trên thế
giới, phù hợp với các mục tiêu và các nguyên tắc của Liên hợp quốc như đã được nêu
trong Hiến chương;
Khẳng định rằng, các vấn đề không quy định trong Công ước sẽ
tiếp tục được xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế chung;
Đã thỏa thuận như sau:
1. Những thuật ngữ được sử dụng trong Công ước cần được hiểu
như sau:
1. “Vùng” (Zone): là đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia;
2. “Cơ quan quyền lực” (Autorité): là cơ quan quyền lực
quốc tế về đáy biển;
3. “Các hoạt động được tiến hành trong Vùng” (activités
menées dans la Zone): là mọi hoạt động thăm dò và khai thác các tài nguyên của
Vùng;
4. “Ô nhiễm môi trường biển” (Pullution du milieu
marin): là việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng
lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể
gây ra những tác hại như gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật
và hệ thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các
hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách
hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương diện sử dụng nó và
làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển;
5. a) “Sự nhận chìm” (immersion) là:
i. mọi sự trút bỏ có ý thức xuống biển các chất thải hoặc
các chất khác từ các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc công trình khác
được bố trí ở biển.
ii. mọi sự đánh chìm tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi
hoặc các công trình khác được bố trí ở biển.
b) Thuật ngữ “nhận chìm” không nhằm vào:
i. việc vứt bỏ các chất thải hoặc các chất khác được sản
sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc khai thác bình thường của tàu thuyền, phương
tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác được bố trí trên biển, cũng như các
thiết bị của chúng, ngoại trừ các chất thải hoặc các chất khác được chuyên chở
hoặc chuyển tài trên các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công
trình khác bố trí ở biển được dùng để thải bỏ các chất đó, trên các tàu thuyền,
phương tiện bay, giàn nổi hay các công trình đó tạo ra;
ii. việc tàng chứa các chất với mục đích không phải chỉ là để
thải bỏ chúng với điều kiện là việc tàng chứa này không đi ngược lại những mục
đich của Công ước.
2.1 “Các quốc gia thành viên” (Etats Parties) là
những quốc gia đã chấp nhận sự ràng buộc của Công ước và Công ước có hiệu lực
đối với các quốc gia đó.
2. Công ước được áp dụng mulatis mutandis (với những thay
đổi cần thiết về chi tiết) cho những thực thể nói trong Điều 305 khoản 1, điểm
b, c, d, e và f đã trở thành thành viên của Công ước, theo đúng với các điều
kiện liên quan đến từng thực thể; trong giới hạn đó, thuật ngữ “quốc gia thành
viên” cũng dùng để chỉ những thực thể này.
Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh
thổ và nội thủy của mình, và trong trường hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng
nước quần đảo, đến một vùng biển tiếp liền, gọi là lãnh hải (merterritoriale)
Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng
như đến đáy và lòng đất của biển này.
Chủ quyền của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật
quốc tế trù định.
Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của
mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo
đúng Công ước.
Ranh giới phía ngoài của lãnh hải là một đường mà mỗi điểm ở
trên đường đó cách điểm gần nhất của đường cơ sở một khoảng cách bằng chiều
rộng của lãnh hải.
Trừ khi có quy định trái ngược của Công ước, đường cơ sở thông
thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo
bờ biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển
chính thức công nhận.
Trong trường hợp những bộ phận đảo cấu tạo bằng san hô hoặc
các đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh, thì đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất ở bờ phía ngoài cũng của các mỏm đá, như đã
được thể hiện trên các hải đồ được quốc gia ven biển chính thức công nhận.
1. Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một
chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng
nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải.
2. Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ
và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc
theo ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía trong bờ, các đường cơ sở
đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi đúng
theo Công ước.
3. Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng
chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn
với đắt liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy.
4. Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát
từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các
thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở
thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.
5. Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở
thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể
tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan
trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng.
6. Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không
được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng
đặc quyền kinh tế.
1. Trừ trường hợp đã được quy định ở Phần IV, các vùng nước
ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy của quốc gia.
2. Khi một đường cơ sở thẳng được vạch ra theo đúng phương
pháp được nói ở Điều 7 gộp vào nội thủy các vùng nước trước đó chưa được coi là
nội thủy, thì quyền đi qua không gây hại nói trong Công ước vẫn được áp dụng ở
các vùng nước đó.
Nếu một con sông đổ ra biển mà không tạo thành vụng thì
đường cơ sở là một đường thẳng được kẻ ngay qua cửa sông nối liền các điểm
ngoài cùng của ngấn nước triều thấp nhất ở hai bên bờ sông.
1. Điều này chỉ liên quan đến những vịnh mà bờ vịnh thuộc
một quốc gia duy nhất.
2. Trong Công ước, “Vịnh” (baie) cần được hiểu là một vùng
lõm sâu rõ rệt
vào đất liền mà chiều sâu của vùng lõm đó so sánh với chiều
rộng ở ngoài cửa của nó đến mức là nước của vùng lõm đó được bờ biển bao quanh
và vùng đó lõm sâu hơn là một sự uốn cong của bờ biển. Tuy nhiên, một vũng lõm
chỉ được coi là một vịnh nếu như diện tích của nó ít nhất cũng bằng diện tích
một nửa hình tròn có đường kính là đường thẳng kẻ ngang qua cửa vào của vùng
lõm.
3. Diện tích của một vùng lõm được tính giữa ngấn nước triều
thấp nhất dọc theo bờ biển của vùng lõm và đường thẳng nối liền các ngấn nước
triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên. Nếu do có các đảo mà một vùng
lõm có nhiều cửa vào, thì nửa hình tròn nói trên có đường kính bằng tổng số
chiều dài các đoạn thẳng cắt ngang các cửa vào đó. Diện tích của các đảo nằm
trong một vùng lõm được tính vào diện tích chung của vùng lõm.
4. Nếu khoảng cách giữa các ngấn nước triều thấp nhất ở các
điểm của cửa vào tự nhiên một vịnh không vượt quá 24 hải lý, thì đường phân
giới có thể được vạch giữa hai ngấn nước triều thấp nhất này và vùng nước ở
phía bên trong đường đó được coi là nội thủy.
5. Khi khoảng cách giữa các ngấn nước triều thấp nhất ở các
điểm của cửa vào tự nhiên của một vịnh vượt quá 24 hải lý, thì được kẻ một đoạn
đường cơ sở thẳng dài 24 hải lý ở phía trong vịnh, sao cho phía trong của nó có
một diện tích nước tối đa.
6. Các quy định trên đây không áp dụng đối với các vịnh gọi
là “vịnh lịch sử” và cũng không áp dụng đối với các trường hợp làm theo phương
pháp đường cơ sở thẳng được trù định trong Điều 7.
Để ấn định ranh giới lãnh hải, các công trình thiết bị thường
xuyên là bộ phận hữu cơ của một hệ thống cảng, nhô ra ngoài khơi xa nhất, được
coi là thành phần của bờ biển. Các công trình thiết bị ở ngoài khơi xa bờ biển
và các đảo nhân tạo không được coi là những công trình thiết bị cảng thường
xuyên.
Các vũng tàu được dùng thường xuyên vào việc xếp dỡ hàng hóa
và làm khu neo tàu, bình thường nằm hoàn toàn hoặc một phần ở ngoài đường ranh
giới bên ngoài của lãnh hải cũng được coi như là bộ phận của lãnh hải.
1. “Bãi cạn lúc chìm lúc nổi” (haut-fonds découvrants) là những
vùng đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ
ra, khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước. Khi toàn bộ hay một phần bãi cạn đó
ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách không vượt quá chiều rộng của lãnh
hải, thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên các bãi cạn này có thể được dùng làm
đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải.
2. Khi các bãi cạn lúc chìm lúc nổi hoàn toàn ở cách lục địa
hoặc một đảo một khoảng cách vượt quá chiều rộng của lãnh hải, thì chung không
có lãnh hải riêng.
Quốc gia ven biển, tùy theo hoàn cảnh khác nhau, có thể vạch
ra các đường cơ sở theo một hay nhiều phương pháp được trù định ở các điều nói
trên.
Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau,
không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi
điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy
nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch
sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới lãnh hải
của hai quốc gia một cách khác.
1. Các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải được
vạch ra theo đúng các Điều 7, 9 và 10 hoặc các ranh giới hình thành từ các điều
đó và các đường hoạch định ranh giới được vạch ra đúng theo các Điều 12 và 15,
được thể hiện trên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí của
nó. Nếu không, thì có thể thay thế bằng một bản kê các tọa độ địa lý các điểm,
có ghi rõ hệ thống trắc địa đã được sử dụng.
2. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các hải đồ
hay các bản kê các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản
để lưu chiếu.
Với điều kiện phải chấp hành Công ước, tàu thuyền của tất cả
các quốc gia, có biển hay không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại
trong lãnh hải.
1. “Đi qua” là đi ở trong lãnh hải, nhằm mục đích
a) Đi ngang qua nhưng không đi vào nội thủy, không đậu lại
trong một vũng tàu hoặc một công trình cảng ở bên ngoài nội thủy; hoặc
b) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy, hoặc đậu lại hay rời khỏi
một vũng tàu hay một công trình cảng trong nội thủy.
2. Việc đi qua phải liên tục và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc
đi qua bao gồm cả việc dừng lại và thả neo, nhưng chỉ trong trường hợp gặp phải
những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả kháng hay
mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, tàu thuyền hay phương tiện bay đang
lâm nguy hoặc mắc nạn.
1. Việc đi qua là không gây hại, chừng nào nó không làm
phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển. Việc đi qua
không gây hại cần phải được thực hiện theo đúng với các quy định của Công ước
và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
2. Việc đi qua của một tàu thuyền nước ngoài bị coi như
phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, nếu như ở
trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một trong bất kỳ hoạt động nào sau
đây:
a) Đe dọa hoặc dùng vũ lục chống lại chính quyền, toàn vẹn
lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển hay dùng mọi cách khác
trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương
Liên hợp quốc;
b) Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào;
c) Thu nhập tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an
ninh của quốc gia ven biển;
d) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;
e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân
sự;
f) Tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của
quốc gia ven biển;
g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống
tàu trái với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của
quốc gia ven biển;
h) Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước;
i) Đánh bắt hải sản;
j) Nghiên cứu hay đo đạc;
k) Làm rối loạn hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên
lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công trình khác của quốc gia ven biển;
l) Mọi hoạt động khác không trực tiếp quan hệ đến việc đi
qua.
Ở trong lãnh hải, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác
buộc phải đi nổi và phải treo cờ quốc tịch.
1. Quốc gia ven biển có thể định ra, phù hợp với các quy
định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, các luật và quy
định liên quan đến việc đi qua không gây hại ở trong lãnh hải của mình về các
vấn đề sau đây:
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển;
b) Bảo vệ các thiết bị và các hệ thống bảo đảm hàng hải và
các thiết bị hay công trình khác;
c) Bảo vệ các đường giây cáp và ống dẫn;
d) Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển;
e) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định của quốc
gia ven biển liên quan đến việc đánh bắt;
f) Gìn giữ môi trường của quốc gia ven biển và ngăn ngừa,
hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường;
g) Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn;
h) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định về hải
quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven biển;
2. Các luật và quy định này không áp dụng đối với cách thiết
kế, việc đóng hoặc đối với trang bị của tàu thuyền nước ngoài, nếu chúng không
có ảnh hưởng gì đến các quy tắc hay quy phạm quốc tế được chấp nhận chung.
3. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các luật và
quy định này.
4. Khi thực hiện quyền đi qua không gây hại ở trong lãnh hải
tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ các luật và quy định này, cũng như tất cả
các quy định quốc tế được chấp nhận chung có liên quan đến việc phòng ngừa đâm
va trên biển.
1. Quốc gia ven biển khi cần bảo đảm an toàn hàng hải có thể
đòi hỏi tàu thuyền nước ngoài đi qua không gây hại trong lãnh hải của mình phải
đi theo các tuyến đường do mình ấn định và phải tôn trọng các cách bố trí phân chia
các luồng giao thông do mình quy định nhằm điều phối việc qua lại các tàu
thuyền.
2. Đặc biệt, đối với các tàu xi-teec (navires-citernes), các
tàu có động cơ chạy bằng năng lượng hại nhân và các tàu chở các chất hay các
nguyên liệu phóng xạ hoặc các chất khác vốn nguy hiểm hay độc hại, có thể bị
bắt buộc chỉ được đi theo các tuyến đường này.
3. Khi ấn định các tuyến đường và quy định cách bố trí phân
chia luồng giao thông theo điều này, quốc gia ven biển lưu ý đến:
a) Các kiến nghị của tổ chức quốc tế có thẩm quyền;
b) Tất cả các luồng lạch thường được sử dụng cho hàng hải
quốc tế;
c) Các đặc điểm riêng của một số loại tàu thuyền và luồng
lạch;
d) Mật độ giao thông.
4. Quốc gia ven biển ghi rõ các tuyến đường và các cách phân
chia luồng giao thông nói trên lên hải đồ và công bố theo đúng thủ tục.
Các tàu thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng
hạt nhân cũng như các tàu thuyền chuyên chở các chất phóng xạ hay các chất khác
vốn nguy hiểm hay độc hại, khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh
hải, buộc phải mang đầy đủ các tài liệu và áp dụng những biện pháp phòng ngừa
đặc biệt theo quy định của các điều ước quốc tế đối với loại tàu thuyền đó.
1. Quốc gia ven biển không được cản trở quyền đi qua không
gây hại của các tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải, ngoài những trường hợp mà
Công ước đã trù định. Đặc biệt khi áp dụng Công ước, quốc gia ben biển không
được:
a) Áp đặt cho các tàu thuyền nước ngoài những nghĩa vụ dẫn
đến việc cản trở hay hạn chế việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của các
tàu thuyền này;
b) Phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối
với các tàu thuyền chở hàng từ một quốc gia nhất định hay đến quốc gia đó hoặc
nhân danh một quốc gia nhất định.
2. Quốc gia ven biển thông báo thích đáng mọi nguy hiểm về
hàng hải của mình biết trong lãnh hải của mình.
1. Quốc gia ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết
trong lãnh hải của mình để ngăn cản mọi việc đi qua có gây hại.
2. Đối với tàu thuyền đi vào vùng nội thủy hay vào một công
trình cảng ở bên ngoài vùng nội thủy đó, quốc gia ven biển cũng có quyền thi
hành những biện pháp cần thiết để ngăn ngừa mọi sự vi phạm đối với các điều
kiện mà tàu thuyền này buộc phải tuân theo để được phép vào vùng nội thủy hay
công trình cảng nói trên.
3. Quốc gia ven biển có thể tạm thời đình chỉ việc thực hiện
quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài tại các khu vực nhất định
trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để bảo đảm an ninh của
mình, kể cả để thử vũ khí, nhưng không được phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay
về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu
lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
1. Không được thu lệ phí đối với tàu thuyền nước ngoài đi
qua lãnh hải, nếu không phải vì lý do trả công cho những dịch vụ riêng đối với
những tàu thuyền này. Khi thu lệ phí đó không được phân biệt đối xử.
1. Quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán
hình sự của mình ở trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc
bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con
tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ các trường hợp sau đây:
a) Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven
biển;
b) Nếu vị vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất
nước hay trật tự trong lãnh hải;
c) Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên
chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương
cục địa phương hoặc
d) Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn
lậu chất ma túy hay các chất kích thích.
2. Khoản 1 không đụng chạm gì đến quyền của quốc gia ven
biển áp dụng mọi luật pháp mà luật trong nước mình qui định nhằm tiến hành các
việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm ở trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh
hải, sau khi rời khỏi nội thủy.
3. Trong những trường hợp nêu ở các khoản 1 và 2, nếu thuyền
trưởng yêu cầu, quốc gia ven biển phải thông báo trước về mọi biện pháp cho một
viên chức ngoại giao hay cho một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ
và phải tạo điều kiện dễ dàng cho viên chức ngoại giao hay viên chức lãnh sự đó
tiếp xúc với đoàn thủy thủ của con tàu. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp,
việc thông báo này có thể tiến hành trong khi các biện pháp đang được thi hành.
4. Khi xem xét có nên bắt giữ và các thể thức của việc bắt
giữ, nhà đương cục địa phương cần phải chú ý thích đáng đến các lợi ích về hàng
hải.
5. Trừ trường hợp áp dụng phần XII hay trong trường hợp có
sự vi phạm các luật và quy định được định ra theo đúng phần V, quốc gia ven
biển không được thực hiện một biện pháp nào ở trên một con tàu nước ngoài khi
nó đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ
vị phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào lãnh hải mà không đi vào nội
thủy.
1. Quốc gia ven biển không được bắt một tàu nước ngoài đang
đi qua lãnh hải phải dừng lại hay thay đổi hành trình của nó để thực hiện quyền
tài phán dân sự của mình đối với một người ở trên con tàu đó.
2. Quốc gia ven biển không thể áp dụng các biện pháp trừng
phạt hay biện pháp bảo đảm (mesures conservatoires) về mặt dân sự đối với con
tàu này, nếu không phải vì những nghĩa vụ đã cam kết hay các trách nhiệm mà con
tàu phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển của quốc gia
ven biển.
3. Khoản 2 không đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển
áp dụng các biện pháp trừng phạt hay bảo đảm về mặt dân sự do luật trong nước
của quốc gia này quy định đối với tàu thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh hải
hay đang đi qua lãnh hải, sau khi đã rời nội thủy.
Trong Công ước, « tàu chiến » là mọi tàu thuyền thuộc lực
lượng vũ trang của một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài đặc trưng của các
tàu thuyền quân sự thuộc quốc tịch nước đó; do một sĩ quan hải quân phục vụ
quốc gia đó chỉ huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách các sĩ quan hay
trong một tài liệu tương đương; và đoàn thủy thủ phải tuân theo các điều lệnh
kỷ luật quân sự.
Nếu một tàu chiến không tôn trọng các luật và quy định của
quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp yêu
cầu phải tuân thủ các luật và quy định đó đã được thông báo cho họ, thì quốc
gia ven biển có thể đòi chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay lập tức.
Quốc gia mà tàu mang cờ chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn
thất hoặc về mọi thiệt hại gây ra cho quốc gia ven biển do một tàu chiến hay bất
kỳ tàu thuyền nào khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại vi
phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua
lãnh hải hay vi phạm các quy định của Công ước hoặc các quy tắc khác của pháp
luật quốc tế.
Ngoài những ngoại lệ đã nêu ở Tiểu mục A và ở các Điều 30 và
31, không một quy định nào của Công ước đụng chạm đến các quyền miễn trừ mà các
tàu chiến và các tàu khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại
được hưởng.
1. Trong một vùng tiếp giáp với lãnh hải của mình, gọi là
vùng tiếp giáp, quốc gia ven biển có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết, nhằm:
a) Ngăn ngừa những phạm vi đối với các luật và quy định hải quan,
thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
b) Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói
trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
2. Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải.
1. Chế độ đi qua các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế mà
phần này quy định không ảnh hưởng gì về bất cứ phương diện nào khác đến chế độ
pháp lý của vùng nước các eo biển này, cũng như đến việc quốc gia ven eo biển
thực hiện chủ quyền hay quyền tài phán của mình ở các vùng nước ấy, ở đáy biển
tương ứng và lòng đất dưới đáy biển, cũng như vùng trời ở trên các vùng nước
đó.
2. Các quốc gia ven eo biển thực hiện chủ quyền hay quyền
tài phán của mình trong những điều kiện do các quy định của phần này và các quy
tắc khác của pháp luật quốc tế trù định.
Không một quy định nào của phần này được đụng chạm đến:
a) Nội thủy thuộc một eo biển, trừ khi việc vạch ra một
tuyến đường cơ sở thẳng theo đúng với phương pháp nói ở Điều 7 đã gộp vào trong
nội thủy những vùng nước trước đây không được coi là nội thủy;
b) Chế độ pháp lý của các vùng nước nằm ngoài lãnh hải của
các quốc gia ven eo biển, dù chúng thuộc vùng quốc tế hay thuộc biển cả;
c) Chế độ pháp lý của các eo biển mà việc đi qua đã được quy
định toàn bộ hay từng phần trong các công ước quốc tế đặc biệt nhằm vào các eo
biển này đã có từ lâu đời và vẫn đang có hiệu lực.
Phần này không áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng hải
quốc tế, nếu như có thể vượt qua eo biển đó bằng một con đường ở biển cả hay
một con đường qua một vùng đặc quyền kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương
diện hàng hải và về các đặc điểm thủy văn; về các con đường này, những phần
khác tương ứng của công ước có thể được áp dụng, kể cả các quy định liên quan
đến tự do hàng hải và tự do hàng không.
Mục này được áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng hải
quốc tế giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế và giữa
một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế.
1. Trong các eo biển nói ở Điều 37, tất cả các tàu thuyền và
phương tiện bay đều được hưởng quyền quá cảnh mà không bị cản trở, trừ trường
hợp hạn chế là quyền đó không được áp dụng cho các eo biển do lãnh thổ đất liền
của một quốc gia và một hòn đảo thuộc quốc gia này tạo thành, khi ở ngoài khơi
hòn đảo đó có một con đường đi trên biển cả, hay có một con đường đi qua một
vùng đặc quyền về kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện hàng hải và về
các đặc điểm thủy văn.
2. Thuật ngữ “quá cảnh” có nghĩa là việc thực hiện, theo
đúng phần này, quyền tự do hàng hải và hàng không với mục đích duy nhất là đi
qua liên tục và nhanh chóng qua eo biển giữa một bộ phận của biển cả hoặc một
vùng đặc quyền về kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc
quyền về kinh tế. Tuy nhiên, đòi hỏi quá cảnh liên tục và nhanh chóng không
ngăn cấm việc đi qua eo biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven eo biển, đề
rời khỏi hoặc lại đến lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép đến lãnh thổ của
quốc gia đó.
3. Bất kỳ hoạt động nào không thuộc phạm vi thực hiện quyền
quá cảnh qua các eo biển đều tùy thuộc vào các quy định khác có thể áp dụng của
Công ước.
1. Trong khi thực hiện quyền quá cảnh, các tàu thuyền và
phương tiện bay:
a) Đi qua hay bay qua eo biển không chậm trễ;
b) Không được đe dọa hay dùng vũ lực để chống lại chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của các quốc gia ven eo biển hay dùng
mọi cách khác trái với các nguyên tắc pháp luật quốc tế được nêu trong Hiến
chương Liên hợp quốc;
c) Không được có hoạt động nào khác ngoài những hoạt động cần
cho sự quá cảnh liên tục và nhanh chóng, theo phương thức đi bình thường, trừ
trường hợp bất khả kháng hoặc trừ trường hợp nguy cấp;
d) Tuân thủ các quy định thích hợp khác của phần này.
2. Trong khi quá cảnh các tàu thuyền tuân thủ:
a) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp
nhận chung về mặt an toàn hàng hải, nhất là các quy tắc quốc tế để phòng ngừa
đâm va trên biển;
b) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp
nhận chung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra.
3. Trong khi quá cảnh, các phương tiện bay:
a) Tôn trọng các quy định về hàng không do Tổ chức hàng
không dân dụng quốc tế đề ra để áp dụng cho các phương tiện bay dân dụng; bình
thường các phương tiện bay của Nhà nước phải tuân thủ các biện pháp an toàn do
các quy định này đề ra và khi hoạt động vào bất kỳ lúc nào, các phương tiện bay
cũng phải chú ý đến an toàn hàng không.
b) Thường xuyên theo dõi tần số điện đài mà cơ quan có thẩm
quyền được quốc tế chỉ định làm nhiệm vụ kiểm soát giao thông hàng không đã
phân bổ cho, hoặc tần số quốc tế về nguy cấp.
Trong khi quá cảnh, các tàu thuyền nước ngoài, kể cả các tàu
thuyền chuyên dùng cho nghiên cứu khoa học biển hay cho đo đạc thủy văn, không
được dùng để nghiên cứu hoặc đo đạc nếu không được phép trước của các quốc gia
ven eo biển.
1. Theo đúng phần này, các quốc gia ven eo biển khi có nhu
cầu bảo đảm an toàn cho tàu thuyền đi qua các eo biển, có thể ấn định các tuyến
đường và quy định các cách phân chia luồng giao thông.
2. Các quốc gia nói trên, khi hoàn cảnh đòi hỏi và sau khi
đã công bố theo đúng thủ tục biện pháp này, có thể ấn định các tuyến đường mới hay
quy định các cách mới phân chia luồng giao thông thay thế mọi tuyến đường hay
mọi cách phân chia luồng giao thông đã được ấn định hay quy định trước đó.
3. Các tuyến đường và cách bố trí phân chia luồng giao thông
cần phải phù hợp với quy định quốc tế đã được chấp nhận chung.
4. Trước khi ấn định hay thay thế các tuyến đường hoặc trước
khi quy định hay thay thế các cách phân chia luồng giao thông, các quốc gia ven
eo biển gửi các đề nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền thông qua.
Tổ chức này chỉ có thể chấp nhận các tuyến đường và cách phân chia luồng giao
thông nào đã có thể thỏa thuận với các quốc gia ven eo biển; khi đó, các quốc
gia này có thể ấn định, quy định hoặc thay thế các tuyến đường và các cách phân
chia luồng giao thông này.
5. Khi đề nghị thiết lập trong một eo biển các tuyến đường
hay cách phân chia luồng giao thông có liên quan đến vùng nước của nhiều quốc
gia ven eo biển, các quốc gia hữu quan hợp tác với nhau để soạn thảo các đề
nghị, có sự tham khảo ý kiến của tổ chức quốc tế có thẩm quyền.
6. Các quốc gia ven eo biển ghi rõ ràng lên các hải đồ tất
cả các tuyến đường hay tất cả các cách phân chia luồng giao thông mà mình đã
thiết lập và công bố các hải đồ này theo đúng thủ tục.
7. Trong khi quá cảnh, tàu thuyền tôn trọng các tuyến đường và
các cách phân chia luồng giao thông đã được thiết lập theo đúng điều này.
1. Với điều kiện chấp hành mục này, các quốc gia ven eo biển
có thể ra các luật và quy định liên quan đến việc đi qua eo biển về các vấn đề
sau:
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông trên biển như đã
được nêu ở Điều 41;
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường, bằng cách
thi hành quy định quốc tế có thể áp dụng được về việc trút bỏ dầu, cặn dầu và
các chất độc hại trong eo biển;
c) Việc cấm đánh bắt hải sản đối với các tàu đánh bắt hải
sản; kể cả quy định việc xếp đặt các phương tiện đánh bắt;
d) Xếp, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu
trái với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc
gia ven eo biển.
2. Các luật và quy định này không được dẫn đến bất kỳ một sự
phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước
ngoài, việc áp dụng các luật và quy định này không được có tác dụng ngăn cản,
hạn chế hay gây trở ngại cho việc thực hiện quyền quá cảnh như đã được xác định
trong mục này.
3. Các quốc gia ven eo biển công bổ những luật và quy định
này theo đúng thủ tục.
4. Các tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền quá cảnh
qua eo biển phải tuân thủ các luật và quy định này.
5. Trong trường hợp một tàu hay một phương tiện bay được hưởng
quyền miễn trừ về chủ quyền vi phạm các luật và quy định này, quốc gia mà con
tàu mang cờ hay quốc gia đăng ký phương tiện bay phải chịu trách nhiệm quốc tế
về mọi tổn thất hay thiệt hại có thể gây ra cho eo biển.
Các quốc gia sử dụng một eo biển và các quốc gia ven eo biển
cần thỏa thuận hợp tác với nhau để:
a) Thiết lập và bảo dường các thiết bị an toàn và bảo đảm
hàng hải cần thiết cũng như các thiết bị khác đặt trong eo biển dùng để làm dễ
dàng cho hàng hải quốc tế, và
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm do tàu thuyền
gây ra.
Các quốc gia ven eo biển không được gây trở ngại cho việc
quá cảnh và phải thông báo đầy đủ và mọi nguy hiểm đối với hàng hải trong eo
biển hoặc đối với việc bay trên eo biển mà các quốc gia này nắm được. Việc thực
hiện quyền quá cảnh không thể bị đình chỉ.
1. Chế độ đi qua không gây hại được nêu ở Mục 3 của phần II
được áp dụng trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế:
a) Nằm ngoài phạm vi áp dụng của chế độ quá cảnh theo Điều
38, khoản 1; hoặc
b) Nối liền lãnh hải của một quốc gia với một bộ phận của
biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác.
2. Việc thực hiện quyền đi qua không gây hại trong các eo
biển không thể bị đình chỉ.
Trong công ước:
a) “Quốc gia quần đảo” (Etat Archipel) là một quốc
gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số
hòn đảo khác nữa.
b) “Quần đảo” (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể
cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác
có liên quan với nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa
lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.
1. Một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng
của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc
chìm lúc nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy
các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước đó với đất, kể
cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1.
2. Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải
lý; tuy nhiên có thể tối đa 3% của tổng số các đường cơ sở bao quanh một quần
đảo nào đó có một chiều dài lớn hơn nhưng không quá 125 hải lý.
3. Tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường
bao quanh chung của quần đảo.
4. Các đường cơ sở không thể kéo dến hay xuất phát từ các
bãi cạn lúc chìm lúc nổi, trừ trường hợp tại đó có xây đặt các đèn biển hay các
thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt biển hoặc trừ trường hợp toàn bộ
hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá
chiều rộng lãnh hải.
5. Một quốc gia quần đảo không được áp dụng phương pháp kẻ
các đường cơ sở khiến cho các lãnh hải của một quốc gia khác bị tách rời với
biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế.
6. Nếu một phần của vùng nước quần đảo của một quốc gia quần
đảo nằm giữa hai mảnh lãnh thổ của một quốc gia kế cận, thì các thuyền và mọi
lợi ích chính đáng mà quốc gia kế cận này vẫn được hưởng theo truyền thống ở
trong các vùng nước nói trên, cũng như tất cả các quyền nảy sinh từ các điều
ước được ký kết giữa hai quốc gia, vẫn tồn tại và vẫn được tôn trọng.
7. Để tính toán tỷ lệ diện tích các vùng nước so với diện
tích phần đất đã nêu ở khoản 1, các vùng nước trên trong các bãi đá ngầm bao
quanh các đảo và vành đai san hô, cũng như mọi phần của một nền đại dương có
sườn dốc đất đứng, hoàn toàn hay gần như hoàn toàn do một chuỗi đảo đá vôi hay một
chuỗi các mỏm đá lúc chìm lúc nổi bao quanh, có thể được coi như là một bộ phận
của đất.
8. Các đường cơ sở được vạch ra theo đúng điều này phải được
ghi trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí. Bản kê tọa độ địa
lý của các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng có thể thay thế cho
các bản đồ này.
9. Quốc gia quần đảo công bố theo đúng thủ tục các bản đồ
hoặc bảng liệt kê tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để
lưu chiểu.
Chiều rộng của lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về
kinh tế và thềm lục địa được tính từ cách đường cơ sở quần đảo theo đúng Điều
47.
1. Chủ quyền của quốc gia quần đảo mở rộng ra vùng nước ở phía
trong đường cơ sở quần đảo được vạch ra theo đúng Điều 47, được gọi là vùng
nước quần đảo (eaux archipélagiques), bất kể chiều sâu và khoảng cách xa bờ của
chúng thế nào.
2. Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên vùng nước quần
đảo, cũng như đến đáy vùng nước đó và lòng đất tương ứng và đến các tài nguyên ở
đó.
3. Chủ quyền này được thực hiện theo các điều kiện nêu trong
phần này.
4. Chế độ đi qua vùng nước quần đảo do phần này quy định không
đụng chạm về bất kỳ một phương diện nào khác đến chế độ pháp lý của vùng nước
quần đảo, kể cả các đường hàng hải, đến việc quốc gia quần đảo thực hiện chủ
quyền của mình ở vùng nước đó, ở vùng trời phía trên, đáy nước vùng đó và lòng
đất tương ứng cũng như đối với các tài nguyên ở đó.
Ở phía trong vùng nước quần đảo, quốc gia quần đảo có thể vạch
những đường khép kín để hoạch định ranh giới nội thủy của mình theo đúng các
Điều 9, 10, và 11.
1. Không phương hại đến Điều 49, các quốc gia quần đảo tôn
trọng các điều ước hiện hành đã được ký kết với các quốc gia khác và thừa nhận
các quyền đánh bắt hải sản truyền thống và những hoạt động chính đáng của những
quốc gia kế cận trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo và quốc gia quần
đảo. Các điều kiện và thể thức thực hiện các quyền và các hoạt động này, kể cả
tính chất, phạm vi của chúng và cả khu vực thực hiện các quyền và các hoạt động
nói trên, được xác định theo yêu cầu của bất cứ quốc gia nào trong các quốc gia
hữu quan qua các điều ước tay đôi được ký kết giữa các quốc gia đó. Các quyền này
không được chuyển nhượng hay chia sẻ cho quốc gia thứ ba hay cho các công dân
của các quốc gia ấy.
2. Các quốc gia quần đảo tôn trọng các dây cáp ngầm hiện có
của những quốc gia khác đặt và đi quan vùng nước của quốc gia quần đảo mà không
đụng đến bờ biển của mình. Các quốc gia quần đảo cho phép bảo dưỡng và thay thế
các đường dây cáp này sau khi họ đã được thông báo trước về vị trí của chúng và
về những công việc bảo dưỡng hay thay thế dự định tiến hành.
1. Với điều kiện tuân thủ Điều 53 và không phương hại đến
Điều 50, tàu thuyền của tất cả các quốc gia đều được hưởng quyền đi qua không
gây hại trong vùng nước quần đảo đã được quy định ở Mục 3 phần II.
2. Quốc gia quần đảo có thể tạm thời đình chỉ việc đi qua
không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong các khu vực nhất định thuộc vùng
nước quần đảo của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để đảm bảo an ninh của
nước mình, nhưng không có sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt
thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau
khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
1. Trong các vùng nước quần đảo và lãnh hải tiếp liền, quốc
gia quần đảo có thể ấn định các đường hàng hải và các đường hàng không ở vùng
trời phía trên các đường này để các tàu thuyền và phương tiện bay nước ngoài
được đi qua nhanh chóng và liên tục.
2. Tất cả các tàu thuyền và phương tiện bay được hưởng quyền
đi qua quần đảo theo các tuyến đường hàng hải và các đường hàng không đó.
3. “Đi qua vùng nước quần đảo” là việc các tàu thuyền và
phương tiện bay thực hiện không bị cản trở, theo phương thức hàng hải, hàng không
bình thường và theo đúng Công ước, các quyền hàng hải và hàng không của mình,
với mục đích duy nhất là quá cảnh liên tục và nhanh chóng giữa một điểm của
biển cả hay một vùng đặc quyền kinh tế.
4. Các đường hàng hải và các đường hàng không đi qua các vùng
nước quần đảo và lãnh hải tiếp liền hoặc vùng trời phía trên phải bao gồm tất
cả các con đường thường dùng cho hàng hải quốc tế trong vùng nước quần đảo và
vùng trời phía trên; các đường hàng hải cần theo đúng tất cả các luồng lạch
thường dùng cho hàng hải, tất nhiên, không cần phải thiết lập nhiều con đường
thuận tiện như nhau giữa một điểm vào và một điểm ra nào đó.
5. Các đường hàng hải và hàng không này được xác định qua
hàng loạt các đường trục liên tục nối liền các điểm vào với các điểm ra của chúng.
Trong quá trình đi qua các tàu thuyền và phương tiện bay không được đi chệch
các đường trục này quá 25 hải lý, tất nhiên, các tàu thuyền và phương tiện bay
này không được đi cách bờ một khoảng cách dưới 1/10 khoảng cách giữa những điểm
gần nhất của các đảo nằm dọc theo một con đường.
6. Quốc gia quần đảo khi ấn định các đường hàng hải theo đúng
điều này cũng có thể quy định các cách phân chia luồng giao thông nhằm bảo đảm
an toàn cho các tàu thuyền sử dụng các luồng lạch hẹp ở bên trong các con đường
này.
7. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, quốc gia quần đảo, sau khi đã công
bố theo đúng thủ tục, có thể ấn định những đường hàng hải mới hay quy định cách
bố trí phân chia luồng giao thông mới để thay thế cho mọi con đường hay mọi
cách phân chia luồng giao thông do quốc gia đó đã thiết lập từ trước.
8. Các đường hàng hải và cách phân chia luồng giao thông đó
phải phù hợp với quy định quốc tế được chấp nhận chung.
9. Khi ấn định hay thay thế các đường hàng hải hoặc khi quy
định hay khi thay thế các cách bố trí phân luồng giao thông, quốc gia quần đảo
gửi các đề nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền để được chấp nhận.
Tổ chức quốc tế này chỉ có thể được chấp thuận các đường hàng hải và các cách bố
trí phân chia luồng giao thông mà họ đã có thể thỏa thuận với quốc gia quần
đảo; khi đó, quốc gia quần đảo có thể ấn định, quy định hay thay thế các đường
hàng hải và các cách phân chia luồng giao thông đó.
10. Quốc gia quần đảo ghi rõ ràng lên các hải đồ được công
bố theo đúng thủ tục các đường trục của các đường hàng hải mà quốc gia đó ấn
định và các cách phân chia luồng giao thông mà quốc gia đó quy định.
11. Khi đi qua vùng quần đảo, các tàu thuyền tôn trọng các
đường hàng hải và các cách chia phân luồng giao thông được thiết lập theo đúng
điều này.
12. Nếu quốc gia quần đảo không ấn định các đường hàng hải
hay các đường hàng không thì quyền đi qua vùng nước quần đảo có thể thực hiện
bằng cách sử dụng các con đường thường dùng cho hàng hải và hàng không quốc tế.
Các Điều 39, 40, 42, 44 được áp dụng Mutatis mutandis (với
những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho việc đi qua vùng quần đảo.
Vùng đặc quyền về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh
hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong
phần này, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các
quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước
điều chỉnh.
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo
tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của
vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về
những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế,
như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của
Công ước về việc:
i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công
trình;
ii. Nghiên cứu khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
2. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và
làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính đến các
quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù hợp với Công ước.
3. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển nêu trong điều này được thực hiện theo đúng phần VI.
Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý
kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có
biển hay không có biển, trong những điều kiện trong những quy định thích hợp
của Công ước trù định, được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền
tự do đặt dây cáp ngầm nêu ở Điều 87, cũng như quyền tự do sử dụng biển vào
những mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các
quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác của Công ước, nhất là những
khuôn khổ việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện bay và dây cáp, ống dẫn
ngầm.
2. Các Điều từ 88 đến 115, cũng như các quy tắc thích hợp
khác của pháp luật quốc tế, được áp dụng ở vùng đặc quyền kinh tế trong chừng
mực mà chúng không mâu thuẫn với phần này.
3. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và
làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, các quốc gia phải tính đến các quyền
và các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy định mà quốc
gia ven biển đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước và trong chừng mực
mà các luật và quy định đó không mâu thuẫn với phần này và với các quy tắc khác
của pháp luật quốc tế.
Trong những trường hợp Công ước không quy định rõ các quyền
hay quyền tài phán trong các vùng đặc quyền về kinh tế cho quốc gia ven biển
hay cho các quốc gia khác và ở đó có xung đột giữa lợi ích của quốc gia ven
biển với lợi ích của một hay nhiều quốc khác thì sự xung đột này phải được giải
quyết trên cơ sở công bằng và có chú ý đến tất cả mọi hoàn cảnh thích đáng, có
tính đến tầm quan trọng của các lợi ích có liên quan đó đối với các bên tranh
chấp và đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế.
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có đặc
quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử
dụng:
a) Các đảo nhân tạo;
b) Các thiết bị và công trình dùng vào các mục đích được trù
định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác;
c) Các thiết bị và công trình có thể gây trở ngại cho việc
thực hiện các quyền của quốc gia ven biển trong vùng.
2. Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối với các
đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình đó, kể cả về mặt các luật và quy
định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư.
3. Việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đó
phải được thông báo theo đúng thủ tục, và việc duy trì các phương tiện thường
trực để báo hiệu sự có mặt của các đảo, thiết bị và công trình nói trên cần
được bảo đảm. Các thiết bị hay công trình đã bỏ hoặc không dùng đến nữa cần
được tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải, có tính đến những quy phạm quốc tế đã
được chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra về mặt đó. Khi tháo
dỡ phải tính đến việc đánh bắt hải sản, bảo vệ môi trường biển, các quyền và
các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông báo thích đáng về vị trí, kích thước
và độ sâu của những phần còn lại của một thiết bị hoặc công trình chưa được
tháo dỡ hoàn toàn.
4. Quốc gia ven biển, nếu cần, có thể lập ra xung quanh các
đảo nhân tạo, các thiết bị hoặc công trình đó những khu vực an toàn với kích thước
hợp lý; trong các khu vực đó, quốc gia ven biển có thể áp dụng các biện pháp
thích hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng như an toàn của các đảo nhân tạo,
các thiết bị và công trình đó.
5. Quốc gia ven biển ấn định chiều rộng của những khu vực an
toàn có tính đến các quy phạm quốc tế có thể áp dụng được. Các khu vực an toàn
này được xác định sao cho đáp ứng một cách hợp lý với tính chất và chức năng
của các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trinh, và không thể mở rộng ra
một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công
trình, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các đảo nhân tạo, thiết bị và
các công trình dó, trừ ngoại lệ do các vi phạm của quốc tế đã được thừa nhận
chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiến nghị. Phạm vi của khu
vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục.
6. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn
đó và tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến hàng
hải trong khu vực của các đảo nhân tạo, các thiết bị, các công trình và các khu
vực an toàn.
7. Không được xây dựng những đảo nhân tạo, thiết bị hoặc
công trình, không được thiết lập các khu vực an toàn xung quanh các đảo, thiết
bị, công trình đó khi việc đó có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các
đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
8. Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được
hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng
không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền
về kinh tế hoặc thềm lục địa.
1. Quốc gia ven biển ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp
nhận được đối với các tài nguyên sinh vật ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của
mình.
2. Quốc gia ven biển dựa vào các số liệu khoa học đáng tin
cậy nhất mà mình có, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý
nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế
của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Quốc gia ven biển và các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực, khu vực hay thế giới, hợp
tác với nhau một cách thích hợp để thực hiện mục đích này.
3. Các biện pháp đó cũng nhằm để duy trì hay khôi phục các
đàn (stocks) hải sản được khai thác ở mức bảo đảm đạt năng suất ổn dịnh tối đa,
có tính đến các yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả các nhu cầu kinh
tế của tập thể ven bờ sống về nghề đánh bắt hải sản và các nhu cầu riêng của
các quốc gia đang phát triển, và có tính dến các phương thức đánh bắt, đến quan
hệ hỗ tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả các quy phạm quốc tế tối thiểu
thường được kiến nghị ở cấp phân khu vực, khu vực hay thế giới.
4. Khi áp dụng các biện pháp đó, quốc gia ven biển chú ý đến
tác động của chúng đối với các loài quần hợp với các loài được khai thác hoặc
phụ thuộc vào các loài đó để duy trì hoặc khôi phục các đàn (stocks) của những
loài quần hợp hay phụ thuộc này ở một mức độ làm việc sinh sản của chúng khỏi
nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
5. Các thông tin khoa học có thể sử dụng, các số liệu thống
kê liên quan đến việc đánh bắt và đến sức đánh bắt và các số liệu khác liên
quan đến việc bảo tồn các đàn (stocks) cá được phổ biến và trao đổi đều đặn qua
trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực hoặc
thế giới và khi có điều kiện thì tiến hành với sự tham gia của tất cả các quốc
gia hữu quan, nhất là các quốc gia có công dân được phép đánh bắt trong vùng
đặc quyền về kinh tế.
1. Quốc gia ven biển xác định mục tiêu là tạo điều kiện
thuận lợi cho việc khai thác tối ưu các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền
về kinh tế mà không phương hại đến Điều 61.
2. Quốc gia ven biển xác định khả năng của mình trong việc
khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế. Nếu khả năng
khai thác đó thấp hơn tổng khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận thì quốc gia
ven biển cho phép các quốc gia khác, qua điều ước hoặc các thỏa thuận khác và
theo đúng các thể thức, điều kiên, các luật và quy định nói ở khoản 4, khai
thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt; khi làm như vậy, cần đặc biệt quan
tâm đến các Điều 69 và 70 nhất là quan tâm đến các quốc gia đang phát triển nói
trong các điều đó.
3. Khi đồng ý cho các quốc gia khác vào hoạt động trong vùng
đặc quyền về kinh tế của mình theo điều này, quốc gia ven biển tính đến tất cả
các yếu tố thích đáng, trong đó có: tấm quan trọng của các tài nguyên sinh vật
thuộc khu vực đối với nền kinh tế và đối với các lợi ích quốc gia khác của nước
mình; các Điều 69 và 70, các nhu cầu của các quốc gia đang phát triển trong khu
vực hay phân khu vực về vấn đề khai thác một phần của số dư, và sự cần thiết
phải giảm bớt đến mức tối thiểu những rối loạn kinh tế trong các quốc gia nào
có những công dân thường đánh bắt hải sản ở trong khu vực hoặc đã đóng góp
nhiều vào công tác tìm kiếm và thống kê các đàn (stocks) hải sản.
4. Công dân của các quốc gia khác khi tiến hành đánh bắt
trong vùng đặc quyền về kinh tế phải tuân thủ theo các biện pháp bảo tồn và các
thể thức, các điều kiện khác được đề ra trong các luật và quy định của quốc gia
ven biển. Các luật và quy định đó phải phù hợp với Công ước và đặc biệt có thể đề
cập các vấn đề sau đây:
a) Việc cấp giấy phép cho ngư dân hay tàu thuyền và phương
tiện đánh bắt, kể cả việc nộp thuế hay mọi khoản phải trả khác, trong trường
hợp đối với các quốc gia ven biển đang phát triển, có thể là một sự đóng góp
thích đáng vào ngân sách, vào việc trang bị và vào sự phát triển kỹ thuật của
công nghiệp đánh bắt hải sản;
b) Chỉ rõ các chủng loại cho phép đánh bắt và ấn định tỉ lệ
phần trăm, hoặc là đối với các đàn (stocks) hay các nhóm đàn hải sản riêng biệt
hoặc đối với số lượng đánh bắt của từng chiếc tàu trong một khoảng thời gian
nhất định, hoặc là đối với số lượng đánh bắt của các công dân của một quốc gia
trong một thời kỳ nhất định;
c) Quy định các mùa vụ và các khu vực đánh bắt, kiểu, cỡ và
số lượng các phương tiện đánh bắt, cũng như kiểu, cỡ và số lượng tàu thuyền
đánh bắt có thể được sử dụng;
d) Ấn định tuổi và cỡ cá và các sinh vật khác có thể được
đánh bắt;
e) Các thông tin mà tàu thuyền đánh bắt phải báo cáo, đặc
biệt là những số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và sức đánh bắt và
thông báo vị trí cho các tàu thuyền;
f) Nghĩa vụ tiến hành, với sự cho phép và dưới sự kiểm soát
của quốc gia ven biển, các chương trình nghiên cứu này, kể cả việc lấy mẫu các
thứ đánh bắt được, nơi nhận các mẫu và việc thông báo các số liệu khoa học có
liên quan;
g) Việc quốc gia ven biển đặt các quan sát viên hay thực tập
sinh trên các tàu thuyền đó;
h) Bốc dỡ toàn bộ hay một phần các sản phẩm đánh bắt được
của các tàu thuyền đó ở các cảng của quốc gia ven biển;
i) Các thể thức và điều kiện liên quan đến các xí nghiệp
liên doanh hoặc các hình thức hợp tác khác;
j) Các điều kiện cần thiết về mặt đào tạo nhân viên, về
chuyển giao kỹ thuật trong lĩnh vực đánh bắt hải sản, kể cả việc đẩy mạnh khả
năng nghiên cứu nghề cá của quốc gia ven biển;
k) Các biện pháp thi hành.
5. Quốc gia ven biển phải thông báo theo đúng thủ tục các
luật và quy định mà mình ban hành về mặt bảo tồn quản lý.
1. Khi cùng một đàn (stocks) cá hoặc những đàn (stocks) các
loài quần hợp ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia ven biển,
các quốc gia này cố gắng, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức phân
khu vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần thiết
nhằm phối hợp hoặc bảo đảm việc bảo tồn và phát triển các đàn cá đó mà không
phương hại đến các quy định khác của phần này.
2. Khi cùng một đàn cá hoặc những đàn các loài quần hợp đồng
thời ở trong vùng đặc quyền về kinh tế và ở trong một khu vực tiếp liền với vùng
đó, quốc gia ven biển và các quốc gia khác khai thác các đàn này ở trong khu
vực tiếp liền cố gắng trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức phân khu
vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần thiết để
bảo tồn các đàn cá này trong khu vực tiếp liền.
1. Quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân chuyên
đánh bắt trong khu vực những loài cá di cư xa ghi ở bảng danh mục của Phụ lục
I, cần trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế thích hợp, hợp tác
với nhau nhằm bảo đảm việc bảo tồn các loài cá nói trên và đẩy mạnh việc khai
thác tối ưu các loài cá đó trong toàn bộ khu vực, ở trong cũng như ở ngoài vùng
đặc quyền về kinh tế. Trong những khu vực không có tổ chức quốc tế thích hợp,
thì quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân khai thác các loài cá đó
trong khu vực, hợp tác với nhau để lập ra một tổ chức như thế và tham gia vào
khu vực của tổ chức này.
2. Khoản 1 được áp dụng thêm vào các quy định khác của phần
này.
Không một quy định nào của phần này hạn chế quyền của một
quốc gia ven biển cấm, hạn chế hay quy định việc khai thác các loài có vú ở
biển chặt chẽ hơn những quy định của phần này, cũng như hạn chế thẩm quyền của
một tổ chức quốc tế về việc này nếu có. Các quốc gia hợp tác với nhau nhằm bảo
đảm việc bảo vệ các loài có vú ở biển và đặc biệt là qua trung gian của các tổ
chức quốc tế thích hợp, tìm mọi cách để bảo vệ, quản lý và nghiên cứu loài cá
voi.
1. Các quốc gia có các dòng sông mà ở đó các đàn cá
(Poissons anadromes) vào sinh sản là những nước đầu tiên phải quan tâm đến các
đàn cá này và phải chịu trách nhiệm trước hết về loại cá này.
2. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản cần
chăm lo đến việc bảo tồn các đàn cá đó bằng việc thi hành những biện pháp thích
hợp quy định việc đánh bắt trong tất cả các vùng nước nằm bên trong ranh giới
ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế, cũng như việc đánh bắt nói ở khoản 3, điểm
b. Quốc gia nguồn gốc có thể xác định tổng số được phép đánh
bắt các loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông của họ, sau khi đã tham khảo
các quốc gia nói trong các khoản 3 và 4 đang khai thác các đàn cá đó.
3. a) Chỉ có thể đánh bắt các đàn cá vào sông sinh sản trong
các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế,
trừ các trường hợp mà việc áp dụng quy định này có thể dẫn đến những rối loạn
kinh tế cho một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc. Đối với việc đánh
bắt bên ngoài ranh giới phía ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế, các quốc
gia hữu quan cần tham khảo ý kiến của nhau để thỏa thuậ về các thể thức và điều
kiện của việc đánh bắt này, nhưng phải tính đến các đòi hỏi của việc bảo tồn và
các nhu cầu của quốc gia nguồn gốc về đàn (stoscks) cá đó.
b) Quốc gia nguồn gốc góp phần giảm bớt đến mức tối thiểu
những rối loạn về kinh tế trong các quốc gia khác đang tiến hành khai thác các
loài cá này bằng cách tính đến việc đánh bắt bình thường của các quốc gia này
và đến các cách mà họ khai thác đàn cá đó, cũng như đến tất cả các khu vực mà
các đàn cá đó được khai thác.
c) Các quốc gia nói ở điểm b tham gia qua sự thỏa thuận với
các quốc gia nguồn gốc, vào những biện pháp bảo đảm khôi phục các đàn cá vào sông
sinh sản, đặc biệt là bằng cách đóng góp tài chính cho các biện pháp này; các
quốc gia đó được quốc gia nguồn gốc quan tâm đặc biệt trong việc khai thác các
loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông của mình.
d) Việc áp dụng quy định liên quan đến các đàn cá vào sông
sinh sản ở ngoài vùng đặc quyền về kinh tế được bảo đảm qua sự thỏa thuận giữa
quốc gia nguồn gốc và các quốc gia hữu quan khác.
4. Khi các đàn cá vào sông sinh sản di cư đến các vùng nước
hoặc đi qua các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của vùng đặc quyền về
kinh tế của một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc, quốc gia này hợp tác
với quốc gia nguồn gốc nhằm bảo tồn và quản lý các đàn cá đó.
5. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản và
các quốc gia khác đánh bắt cá này ký kết các thỏa thuận nhằm áp dụng điều này,
nếu có thể được thì qua trung gian của các tổ chức khu vực.
1. Một quốc gia ven biển mà trong vùng nước của mình loài cá
ra biển sinh sản sống phần lớn cuộc đời của chúng chịu trách nhiệm quản lý chúng
và chăm lo đến việc các loài cá này vào hoặc ra khỏi vùng nước đó.
2. Chỉ được khai thác các loài cá ra biển sinh sản trong
những vùng nước bên trong các ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về kinh
tế. Trong các vùng đặc quyền về kinh tế, việc khai thác được tiến hành theo
điều này và các quy định khác của Công ước liên quan đến việc đánh bắt trong
các vùng này.
3. Trong những trường hợp mà các loài cá ra biển sinh sản,
dù đã đến hay chưa đến thời kỳ sinh sản, di cư qua vùng đặc quyền về kinh tế
của một quốc gia khác thì việc quản lý các loài cá này, kể cả việc khai thác,
được quy định qua thỏa thuận giữa quốc gia nói ở khoản 1 và quốc gia hữu quan
kia. Thỏa thuận này cần được bảo đảm việc quản lý hợp lý các loài cá được xem
xét và có tính đến trách nhiệm của quốc gia nói ở khoản 1 về việc bảo tồn các
loài này.
Phần này không áp dụng đối với các loài định cư, như đã được
quy định ở Điều 77, khoản 4.
1. Một quốc gia không có biển có quyền tham gia, theo một
thể thức công bằng, khai thác một phần thích hợp số dư các tài nguyên sinh vật của
các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển trong cùng một phân khu
vực hoặc khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa lý thích đáng của tất
cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các Điều 61 và 62.
2. Các điều kiện và các thể thức của việc tham gia này được
các quốc gia hữu quan ấn định thông qua thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay
khu vực, đặc biệt tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi động tác có hại cho cộng đồng
những người đánh bắt hoặc cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia không có biển, theo đúng điều này, tham
gia hoặc có quyền tham gia, theo các thỏa thuận tay đôi, phân phu vực hay khu
vực hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của các vùng đặc
quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia không có biển khác hoặc các quốc gia
bất lợi về địa lý tham gia vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng
đặc quyền về kinh tế cuả quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia
ven biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia này một gánh nặng đặc
biệt;
d) Những nhu cầu thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được
xem xét.
3. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho phép
một mình quốc gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt
có thể chấp nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong
vùng đặc quyền về kinh tế của mình thì quốc gia đó và các quốc gia hữu quan
khác hợp tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hoặc khu vực
một cách công bằng cho phép các quốc gia đang phát triển không có biển trong
cùng khu vực hay phân khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào việc khai thác
những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia
ven biển thuộc phân khu vực hay khu vực, có tính đến các hoàn cảnh và điều kiện
thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy định này, cũng cần tính
đến các yếu tố đã nêu ở khoản 2.
4. Các quốc gia phát triển không có biển chỉ có quyền tham
gia khai thác các tài nguyên sinh vật theo điều này, trong các vùng đặc quyền
về kinh tế của các quốc gia ven biển phát triển ở trong cùng phân khu vực hay
khu vực, có tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, khi cho các quốc gia khác
vào khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đã xem
xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với cộng đồng những
người đánh bắt cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc gia có công dân
vẫn thường tiến hành việc đánh bắt trong vùng.
5. Các quy định nói trên được áp dụng không phương hại đến
các thỏa thuận được ký kết nếu có trong các phân khu vực hay khu vực, mà ở đó
các quốc gia ven biển có thể dành cho các quốc gia không có biển ở cùng phân
khu vực hay khu vực đó những quyền ngang nhau, hoặc ưu tiên để khai thác các tài
nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
1. Các quốc gia bất lợi về địa lý có quyền tham gia, theo
một thể thức công bằng, vào việc khai thác một phần thích hợp số dư của những
tài nguyên sinh vật trong các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven
biển ở cùng phân khu vực hay khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa
lý thích đáng của tất cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các
Điều 61 và 62.
2. Trong phần này, thuật ngữ “quốc gia bất lợi về địa lý” có
nghĩa là các quốc gia ven biển, kể cả các quốc gia ở ven bờ một biển kín hoặc
nửa kín, mà vị trí địa lý của họ làm cho họ phải lệ thuộc vào việc khai thác
những tài nguyên sinh vật ở các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia khác
trong phân khu vực hoặc khu vực để có đủ cá dùng làm thực phẩm cung cấp cho dân
cư hay một bộ phận dân cư của họ, cũng như các quốc gia ven biển không thể có
một vùng đặc quyền kinh tế riêng.
3. Các điều kiện và thể thức của việc tham gia đó được các quốc
gia hữu quan ấn định thông qua con đường thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay
khu vực, đặc biệt có tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi tác hại cho cộng đồng những
người đánh bắt hay cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia bất lợi về địa lý, theo đúng điều này,
tham gia hoặc có quyền tham gia theo các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay
khu vực hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc
quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia bất lợi về địa lý khác và các quốc
gia không có biển tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh vật của vùng đặc
quyền về kinh tế của quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven
biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia ấy phải chịu một gánh nặng đặc
biệt;
d) Những nhu cầu về thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được
xem xét.
4. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho phép
một mình quốc gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt
có thể chấp nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong
vùng đặc quyền về kinh tế của mình, quốc gia đó và các quốc gia hữu quan khác
hợp tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực một
cách công bằng, cho phép các quốc gia đang phát triển bất lợi về địa lý trong
cùng một phân khu vực hay khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào việc khai
thác những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc
gia ven biển trong phân khu vực hay khu vực, có tính đến các hoàn cảnh và các
điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy định này, cũng
cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 3.
5. Các quốc gia phát triển bất lợi về địa lý chỉ có quyền
tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh vật, theo điều này, trong các vùng đặc
quyền về kinh tế của các quốc gia phát triển ở cùng một phân khu vực hay khu
vực, có tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, trong khi cho các quốc gia
khác vào khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình,
đã xem xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với cộng
đồng những người đánh bắt, cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc gia
có công dân vẫn thường tiến hành đánh bắt ở trong vùng.
6. Các quy định trên được áp dụng không phương hại đến các thỏa
thuận được ký kết nếu có trong các phân khu vực hoặc khu vực mà ở đó các quốc
gia ven biển có thể dành cho các quốc gia bất lợi về địa lý trong cùng khân khu
vực hay khu vực các quyền ngang nhau hoặc ưu tiên để khai thác các tài nguyên
sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
Các Điều 69 và 70 không áp dụng đối với các quốc gia ven
biển có nền kinh tế lệ thuộc rất nặng nề vào việc khai thác tài nguyên sinh vật
ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
1. Các quyền khai thác các tài nguyên sinh vật nêu ở các Điều
69 và 70 không thể chuyển giao trực tiếp hay gián tiếp cho các quốc gia thứ ba
hay cho các công dân của các quốc gia này, dù bằng con đường cho thuê hay bằng
giấy phép, hoặc bằng việc thành lập các xí nghiệp liên doanh hay bằng bất cứ
một thỏa thuận nào khác mà tác dụng là tạo ra một sự chuyển giao như thế, trừ
trường hợp các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác.
2. Điều quy định trên không ngăn cấm các quốc gia hữu quan
nhận của quốc gia thứ ba hay các tổ chức quốc tế sự trợ giúp về kỹ thuật hay
tài chính nhằm làm dễ dàng cho việc thực hiện các quyền của họ theo đúng Điều
69 và 70, với điều kiện là việc này không dẫn đến một tác dụng nói ở khoản 1.
1. Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm
dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về
kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc
khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các
luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước.
2. Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì
cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu
này.
3. Các chế tài do quốc gia ven biển trù định đối với những
vụ vi phạm các luật và quy định về mặt đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế
không được bao gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc gia hữu quan có thỏa
thuận khác, và không bao gồm một hình phạt thân thể nào khác.
4. Trong trường hợp bắt hay giữ một tàu thuyền nước ngoài,
quốc gia ven biển thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ biết, bằng các con
đường thích hợp, các biện pháp được áp dụng cũng như các chế tài có thể sẽ được
tuyên bố sau đó.
1. Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa
các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diên nhau được thực hiện bằng con đường
thỏa thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa
án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới được một thỏa thuận trong một thời gian
hợp lý thì các quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV.
3. Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1, các quốc gia
hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các
dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và không phương hại hay cản trở việc ký
kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoán quá độ này. Các dàn xếp tạm thời
không phương hại đến hoạch định cuối cùng.
4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu
quan, các vấn đề liên quan đến việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh
tế được giải quyết theo đúng điều ước đó.
1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các ranh giới phía ngoài
của vùng đặc quyền về kinh tế và các đường hoạch định ranh giới được vạch theo
đúng Điều 74 đều được ghi lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị
trí của nó; có trường hợp việc vẽ các ranh giới ngoài hay các đường hoạch định
ranh giới đó có thể thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm, có ghi
rõ hệ thống trắc địa được sử dụng.
3. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các bản đồ
hay bản kê các tọa độ đại lý gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu
chiểu.
1. Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần
kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa
lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý,
khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng cách gần hơn.
2. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài các giới hạn nói ở
các khoản từ 4 đến 6.
3. Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa
của quốc gia ven biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng với thềm, dốc và bờ,
cũng như lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao gồm các đáy của đại
dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng, cũng không bao gồm
lòng đất dưới đáy của chúng.
4. a) Theo công ước, quốc gia ven biển xác định bờ ngoài của
rìa lục địa mở rộng ra quá 200 hải lý các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải bằng:
i. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm
cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm
khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay,
ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm
cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng
hợp với điểm biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc
5. Các điểm cố định xác định trên đáy biển, đường ranh giới
ngoài cùng của thềm lục địa được vạch theo đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ i)
và
ii), nằm cách điểm cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng
cách không vượt quá 350 hải lý hoặc nằm cách đường đẳng sâu 2500m là đường nối
liền các điểm có chiều sâu 2500m, một khoảng cách không quá 100 hải lý.
6. Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi ngầm, ranh giới ngoài
của thềm lục địa không vượt quá một đường vạch ra ở cách đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không áp dụng cho các địa hình
nhô cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố tự nhiên của rìa lục địa, như các
thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.
7. Quốc gia ven biển ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa
của mình, khi thềm này mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải, bằng cách nối liền các điểm cố định xác định bằng hệ tọa độ
kinh vĩ độ, thành các đoạn thẳng dài không quá 60 hải lý.
8. Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới
các thềm lục địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ
sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được
thành lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. Ủy ban gửi
cho các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề liên quan đến việc ấn
định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới do một quốc gia ven
biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có tính chất bắt buộc.
9. Quốc gia ven biển gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các
bản đồ và các điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một
cách thường xuyên ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình. Tổng thư ký công
bố các tài liệu này theo đúng thủ tục.
10. Điều này không xét đoán trước vấn đề hoạch định ranh
giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.
1. Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối
với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình.
2. Các quyền nói ở khoản 1 có tính chất đặc quyền, nghĩa là
các quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên
thiên nhiên của thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như
vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó.
3. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa
không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ
tuyên bố rõ ràng nào.
4. Các tài nguyên thiên nhiên ở phần này bao gồm các tài nguyên
thiên nhiên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật khác của
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như các sinh vật thuộc loại định cư,
nghĩa là những sinh vật nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được, hoặc nằm bất động ở
đáy, hoặc lòng đất dưới đáy; hoặc là không có khả năng di chuyển nếu không có khả
năng tiếp xúc với đáy hay lòng đáy dưới đáy biển.
1. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa
không đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời
trên vùng nước này.
2. Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối
với thềm lục địa không gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do
khác của các nước khác đã được công ước thừa nhận, cũng không được cản trở việc
thực hiện các quyền này một cách không thể biện bạch được.
1. Tất cả các quốc gia có quyền đặt các dây cáp và ống dẫn
ngầm ở thềm lục địa theo đúng điều này.
2. Trong điều kiện thi hành các biện pháp hợp lý nhằm thăm
dò thềm lục địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa và ngăn chặn,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm do ống dẫn gây ra, quốc gia ven biển không được cản
trở việc lắp đặt hay bảo quản các ống dẫn và dây cáp đó.
3. Tuyến ống dẫn đặt ở thềm lục địa cần được sự thỏa thuận
của quốc gia ven biển.
4. Không một quy định nào ở phần này đụng chạm đến quyền của
quốc gia ven biển đặt ra các điều kiện đối với các đường dây cáp hay các đường
ống dẫn đi vào lãnh thổ hay lãnh hải của mình, cũng như, không đụng chạm đến
đường tài phán của quốc gia này đối với dây và ống dẫn được đặt, hoặc sử dụng trong
khuôn khổ của việc thăm dò thềm lục địa của mình hay việc khai khác tài nguyên
thiên nhiên của mình, hoặc của việc khai thác các đảo nhân tạo, thiết bị hay
công trình thuộc quyền tài phán của quốc gia này.
5. Khi đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, các quốc gia phải
tính đến các dây cáp và ống ngầm đã được đặt trước. Đặc biệt họ cần lưu ý không
làm hại đến khả năng sửa chữa các đường dây cáp và ống dẫn đó.
Điều 60 áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần
thiết và chi tiết) đối với các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục
địa.
Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc
khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì.
1. Quốc gia ven biển nộp các khoản đóng góp bằng tiền hay
bằng hiện vật về việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không sinh vật của thềm
lục địa nằm ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
2. Các khoản đóng góp được nộp hàng năm tính theo toàn bộ
sản phẩm thu hoạch được ở một điểm khai thác nào đó, sau năm năm đầu khai thác
điểm đó. Năm thứ 6 tỉ lệ đóng góp là 1% của giá trị hay của khối lượng sản phẩm
khai thác được ở điểm khai thác. Sau đó, mỗi năm tỷ lệ này tăng lên 1% cho đến
năm thứ 12 và bắt đầu từ năm thứ 12 trở đi tỷ lệ đó ở mức 7%. Sản phẩm không
bao gồm các tài nguyên được dùng trong khuôn khổ của việc khai thác.
3. Quốc gia đang phát triển nào là nước chuyên nhập khẩu một
khoáng sản được khai thác từ thềm lục địa của mình được miễn các khoản đóng góp
đối với loại khoáng sản đó.
3. Các quan sát viên ở Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc
về luật biển đã ký vào Định ước cuối cùng và không nằm trong phạm vi Điều 305,
khoản 1, điểm c, d, e hay f có quyền tham dự vào các công việc của Cơ quan
quyền lực với tư cách quan sát viên theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực.
4. Cơ quan quyền lực đặt trụ sở ở Gia-mai-ca.
5. Cơ quan quyền lực có thể lập ra các trung tâm hay các cơ
quan chỉ đạo khu vực xét thấy cần thiết để thi hành chức năng của mình.
1. Cơ quan quyền lực là tổ chức mà qua đó, các quốc gia
thành viên tổ chức và kiểm soát các hoạt động tiến hành trong Vùng, đặc biệt là
nhằm mục đích quản lý các tài nguyên của Vùng theo đúng phần này.
2. Cơ quan quyền lực nắm các quyền hạn và chức năng Công ước
giao phó một cách rõ ràng. Cơ quan quyền lực có những quyền hạn và chức năng
nói trên đối với những hoạt động tiến hành trong Vùng.
3. Cơ quan quyền lực được thành lập trên nguyên tắc bình đẳng
về chủ quyền của tất cả các thành viên.
4. Để bảo đảm cho mỗi thành viên các quyền và lợi ích do tư
cách thành viên mà có, tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực phải làm
tròn một cách trung thực những nghĩa vụ của họ theo phần này.
1. Một đại hội đồng, một Hội đồng và một Ban thư ký được lập
ra là những cơ quan chính của Cơ quan quyền lực.
2. Một Xí nghiệp được lập ra là cơ quan mà thông qua đó, cơ
quan quyền lực thi hành các chức năng được nêu ở Điều 170, khoản 1.
3. Các cơ quan phụ trợ được coi là cần thiết có thể được thành
lập theo đúng phần này.
4. Mỗi cơ quan chính của Cơ quan quyền lực và Xí nghiệp có
nhiệm vụ thi hành những quyền hạn và chức năng đã được giao phó. Trong khi thi
hành các quyền hạn và chức năng này, mỗi cơ quan tránh những hành động có thể
đụng cham hoặc làm hại cho việc thi hành các quyền hạn và chức năng riêng đã
được giao phó cho một cơ quan khác.
1. Đại hội đồng bao gồm tất cả các thành viên của Cơ quan
quyền lực. Mỗi thành viên có một đại diện ở Đại hội đồng, người này có thể có những
người thay thế và cố vấn đi theo.
2. Đại hội đồng họp thường kỳ hàng năm, và họp bất thường theo
quyết định của Đại hội đồng hay do Tổng thư ký triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng
hay của đa số các thành viên của Cơ quan quyền lực.
3. Các khóa họp của Đại hội đồng được tiến hành tại trụ sở
của Cơ quan quyền lực, trừ khi Đại hội đồng có quyết định khác.
4. Đại hội đồng thông qua quy chế nội bộ của mình. Mỗi khi
khai mạc khóa họp thường kỳ, Đại hội đồng bầu ra chủ tịch và số ủy viên cần
thiết khác của cơ quan chỉ đạo. Những người này lãnh trách nhiệm cho đến khi
bầu cử một cơ quan chỉ đạo mối ở khóa họp thường kỳ tiếp theo.
5. Số đại biểu cần thiết (quorum) là đa số thành viên của Đại
hội đồng.
6. Mỗi thành viên của Đại hội đồng có một phiếu.
7. Các quyết định về những vấn đề thủ tục kể cả việc triệu
tập một khóa họp bất thường của Đại hội đồng được thông qua theo đa số thành
viên có mặt và bỏ phiếu.
8. Các quyết định về các vấn đề nội dung phải được hai phần
ba thành viên có mặt và bỏ phiếu thông qua, với điều kiện là đa số này phải gồm
đa số các thành viên tham dự khóa họp. Trong trường hợp còn nghi ngờ không rõ có
phải là một vấn đề nội dung hay không, thì vấn đề bàn cãi đó được coi như là
một vấn đề nội dung, trừ trường hợp Cơ quan quyền lực có quyết định khác theo
đa số cần thiết đối với những quyết định về các vấn đề nội dung.
9. Khi một vấn đề nội dung sắp được đem ra biểu quyết lần
đầu thì Chủ tịch có thể hoãn và nếu có ít nhất một phần năm số thành viên của
Đại hội đồng yêu cầu, thì cần phải hoãn việc biểu quyết về điểm này trong một
thời hạn không được quá 5 ngày. Quy tắc này chỉ có thể được áp dụng một lần đối
với cùng một vấn đề, và việc áp dụng quy tắc này không được làm cho vấn đề bị
hoãn đến quá ngày kết thúc khóa họp.
10. Khi có ít nhất một phần tư số thành viên của Đại hội
đồng thỉnh cầu bằng một văn bản gửi lên Chủ tịch Đại hội đồng, yêu cầu các Đại
hội đồng lấy ý kiến tư vấn xem một đề nghị đưa ra Đại hội đồng yêu cầu Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển của Tòa án quốc tế về luật
biển có ý kiến tư vấn. Cuộc biểu quyết được hoãn đến khi Viện phát biểu ý kiến.
Nếu trước khi khóa họp kết thúc một tuần mà chưa nhận được ý kiến tư vấn thì
Đại hội đồng quyết định thời gian sẽ họp lại để biểu quyết về đề nghị đã bị
hoãn lại đó.
1. Đại hội đồng, cơ quan duy nhất bao gồm tất cả các thành
viên của Cơ quan quyền lực, được coi là cơ quan tối cao của Cơ quan quyền lực;
Các cơ quan chính khác chịu trách nhiệm trước nó, như đã được quy định rõ ràng
trong Công ước; Đại hội đồng có quyền, căn cứ vào các quy định tương ứng của
Công ước quyết định chính sách chung của Cơ quan quyền lực về bất kỳ vấn đề gì
hay về bất kỳ việc gì thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực.
2. Ngoài ra, Đại hội đồng còn có các quyền hạn và chức năng
sau đây:
a) Bầu ra các ủy viên của Hội đồng theo đúng Điều 161;
b) Bầu ra Tổng thư ký trong số các ứng cử viên do Hội đồng
đề nghị;
c) Dựa vào giới thiệu của Hội đồng, bầu ra các ủy viên của
Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Xí nghiệp;
d) Nếu cần, thì thành lập các cơ quan phụ trợ để có thể làm
tròn các chức năng của mình theo đúng phần này. Về cơ cấu của các cơ quan phụ
trợ này cần phải chú ý thích đáng đến nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý
về các thành viên, đến các lợi ích riêng biệt và đến sự cần thiết bảo đảm cho
các cơ quan này tuyển chọn được các thành viên có trình độ và thông thạo trong
những lĩnh vực mà họ đảm nhiệm;
e) Quy định phần đóng góp của các thành viên vào ngân sách hành
chính của Cơ quan quyền lực theo một ba-rem đã được sử dụng cho ngân sách thông
thường của Liên hợp quốc, cho đến khi Cơ quan quyền lực có được các khoản thu
nhập lấy từ các nguồn khác đủ để trang trải các chi phí hành chính của mình;
f) i. Dựa vào kiến nghị của Hội đồng, xem xét và phê chuẩn
các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc phân chia công bằng từ các
mối lợi về tài chính và các mối lợi về kinh tế khác thu được từ những hoạt động
tiến hành trong Vùng cũng như những đóng góp được trù định ở Điều 82, có quan
tâm đặc biệt đến các quyền lợi và nhu cầu của các nước đang phát triển và các dân
tộc chưa giành được độc lập hoàn toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự trị
khác. Nếu đại hội đồng không tán thành các kiến nghị của Hội đồng, thì gửi trả
lại các kiến nghị đó cho Hội đồng đề Hội đồng xem xét lại dưới ánh sáng các
quan điểm mà Đại hội đồng đã nêu ra;
ii. Xem xét và phê chuẩn các quy tắc, qui định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực, cũng như tất cả những điều sửa đổi đối với văn bản này,
mà Hội đồng đã tạm thời chấp nhận theo Điều 162, khoản 2, điểm c, ii. Các quy
tắc, quy định và thủ tục này nhằm vào việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong
Vùng, vào vấn đề quản lý tài chính và vấn đề hành chính nội bộ của Cơ quan quyền
lực và, trên cơ sở kiến nghị của Hội đồng quản trị của Xí nghiệp, vào vấn đề
chuyển khoản của Xí nghiệp sang cho Cơ quan quyền lực;
g) Quyết định việc phân chia công bằng các mối lợi về tài
chính và các mối lợi về kinh tế khác có được từ các hoạt động tiến hành trong
Vùng, một cách phù hợp với Công ước và các quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực;
h) Xem xét và phê chuẩn dự trù ngân sách hàng năm của Cơ quan
quyền lực mà Hội đồng đã đệ trình lên;
i) Xem xét và báo cáo định kỳ của Hội đồng và của Xí nghiệp,
cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội đồng yêu cầu Hội đồng và bất kỳ cơ
quan nào của Cơ quan quyền lực trình lên;
j) Cho tiến hành các cuộc nghiên cứu và soạn thảo các kiến
nghị nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc tế liên quan đến các hoạt động tiến hành trong
vùng, và khuyến khích sự phát triển pháp luật quốc tế theo hướng tiến bọ và
pháp điển hóa bước phát triển đó;
k) Xem xét những vấn đề có tính chất chung có liên quan đến
các hoạt động tiến hành trong Vùng, đặc biệt là những vấn đề nảy sinh đối với
các quốc gia đang phát triển, cũng như đối với những vấn đề mà các hoạt động
này đặt ra đối với một số quốc gia, do vị trí địa lý của họ, nhất là các quốc
gia không có biển và các quốc gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi;
l) Theo kiến nghị của Hội đồng, dựa vào ý kiến của Ủy ban kế
hoạch hóa kinh tế, lập ra một chế độ bù trừ hay thi hành các biện pháp giúp đỡ
khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế như đã trù định
trong Điều 151, khoản 10;
m) Tuyên bố đình chỉ các quyền và các đặc quyền gắn liền với
tư cách thành viên theo Điều 185;
n) Thảo luận bất kỳ vấn đề gì hay việc gì thuộc thẩm quyền của
Cơ quan quyền lực và quyết định một cách phù hợp với việc phân chia các quyền
và chức năng giữa các cơ quan quyền lực xem cơ quan nào sẽ giải quyết một vấn
đề gì hay một việc gì chưa được giao dứt khoát cho các cơ quan đó.
1. Hội đồng gồm 36 ủy viên của Cơ quan quyền lực do Đại hội
đồng bầu ra theo thứ tự như sau:
a) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số các quốc gia thành
viên mà việc tiêu thụ hay nhập khẩu thuần túy các sản phẩm cơ bản thuộc các loại
khoáng sản được khai thác trong vùng vượt quá 2% mức tiêu thụ hay mức nhập khẩu
của thế giới về các sản phẩm đó trong khoảng thời gian 5 năm lại đây có số liệu
thống kê; trong số 4 ủy viên này, ít nhất phải có một quốc gia thuộc khu vực
Đông Âu (xã hội chủ nghĩa) cũng như quốc gia tiêu thụ lớn nhất;
b) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành
viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước
mình, đã được thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và
thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện các
hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải có một
số quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa);
c) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành
viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước
mình, đã thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực
hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải
có hai quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế bị lệ thuộc nặng nề vào việc
xuất khẩu các khoáng sản này;
d) Sáu ủy viên được lựa chọn trong số các quốc gia thành viên
đang phát triển và đại diện cho những lợi ích đặc biệt. Những lợi ích đặc biệt
phải được đại diện bao gồm những lợi ích của các quốc gia có dân số đông, của
các quốc gia không có viển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, của các quốc gia
trong số các quốc gia nhập khẩu chủ yếu các loại khoáng sản sẽ được khai thác trong
Vùng, của các quốc gia có tiềm năng sản xuất các khoáng sản đó và của các quốc
gia kém phát triển nhất;
e) Mười tám ủy viên được bầu theo nguyên tắc phân bổ công
bằng theo địa lý đối với toàn bộ số thành viên của Hội đồng; tất nhiên là theo quy
định này, cứ mỗi vùng địa lý có ít nhất là một quốc gia được bầu làm ủy viên.
Các khu vực địa lý nói ở đây là Châu Phi, châu Mỹ la – tinh, châu Á, Đông Âu
(xã hội chủ nghĩa), cũng như Tây Âu và các quốc gia khác.
2. Khi bầu các ủy viên của Hội đồng theo đúng khoản 1, Đại
hội đồng phải chú ý đến:
a) Đại diện của các quốc gia không có biển và của các quốc
gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ
tại Đại hội đồng;
b) Đại diện của các quốc gia ven biển, đặc biệt là các quốc
gia đang phát triển, không có đầy đủ các điều kiện đã nêu ở khoản 1, điểm a, b,
c hay d, tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ ở Đại hội đồng;
c) Mỗi nhóm quốc gia thành viên được có đại diện ở Hội đồng
sẽ do các ủy viên được nhóm đó chỉ định, tùy theo tình hình làm đại diện.
3. Các cuộc bầu cử được tiến hành trong một khóa họp thường
lệ của Đại hội đồng. Mỗi một ủy viên của Hội đồng được bầu với nhiệm kỳ là bốn
năm. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử các ủy viên của Hội đồng lần đầu, một nữa số
ủy viên đại diện cho mỗi nhóm nước nói ở khoản 1 có nhiệm kỳ là 2 năm.
4. Các ủy viên của Hội đồng có thể được tái cử, nhưng cần
phải chú ý thích đang đến việc bảo đảm sự luân phiên của các ủy viên.
5. Hội đồng thi hành chức trách của mình ở trụ sở của Cơ
quan quyền lực; Hội đồng nhóm họp theo yêu cầu hoạt động của Cơ quan quyền lực và,
trong bất kỳ trường hợp nào, cũng bảo đảm mỗi năm họp ba lần.
6. Số đại biểu cần thiết (quorum) là đa số ủy viên của Hội
đồng.
7. Mỗi ủy viên của Hội đồng có một phiếu.
8. a) Các quyết định về các vấn đề thủ tục được thực hiện
theo đa số các ủy viên có mặt và bỏ phiếu.
b) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đề ra liên
quan đến Điều 162, khoản 2, điểm f, g, h, I, n, p, v và Điều 191, được thông
qua theo đa số hai phần ba các ủy viên có mặt và bỏ phiếu, với điều kiện là đa
số này phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội đồng;
c) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên
quan đến các điều quy định liệt kê sau đây phải được đa số ba phần tư các ủy
viên có mặt và tham gia bỏ phiếu thông qua, với điều kiện là đa số này phải bao
gồm đa số các ủy viên của Hội đồng: Điều 162, khoản 1; Điều 162, khoản 2, điểm
a, b, c, d, e, l, q, r, s, t; Điều 162, khoản 2, điểm u, trong những trường hợp
một người ký hợp đồng hay quốc gia bảo trợ người đó không thực hiện hợp đồng; Điều
162, khoản 2, điểm w, với điều kiện các lệnh được đưa ra theo điểm này chỉ có
thể là bắt buộc quá 30 ngày, nếu nó được một quyết định phù hợp với điểm d, xác
nhận; Điều 162 khoản 2 điểm x, y, z; Điều 163, khoản 2; Điều 174, khoản 3; Điều
11 của phụ lục IV;
d) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên
quan đến Điều 162, khoản 2, điểm m và o, cũng như về việc thông qua các điều
sửa đổi đối với phần XI phải được thông qua bằng consensus (thỏa thuận).
e) Theo điểm d, f và g, thuật ngữ “consensus” (thỏa thuận)
có nghĩa là không có bất kỳ ý kiến phản đối chính thức nào. Trong 14 ngày tiếp
sau một kiến nghị được trình lên Hội đồng, Chủ tịch phải xem xét xem có ý kiến
phản đối chính thức nào không. Nếu Chủ tịch của Hội đồng nhận thấy rằng có một
ý kiến có một ý kiến phản đối, thì trong vòng ba ngày, Chủ tịch lập và triệu
tập một ủy ban hòa giải, gồm nhiều nhất là chín ủy viên của Hội đồng, dưới sự
chủ tọa của bản thân Chủ tịch nhằm loại bỏ những ý kiến bất đồng và dự thảo một
đề nghị có thể được thông qua bằng “consensus” (thỏa thuận). Ủy ban hòa giải
nhanh chóng làm tròn nhiệm vụ của mình và báo cáo lên Hội đồng trong vòng 14
ngày sau khi thành lập. Nếu ủy ban không có khả năng đề xuất một đề nghị có thể
được thông qua bằng “consensus” (thỏa thuận) thì phải trình bày trong báo cáo
của mình những lý do của ý kiến đối lập với để nghị;
f) Các quyết định về những vấn đề không được liệt kê ở trên
mà Hội đồng có quyền hạn giải quyết theo các quy tắc, quy định và thủ tục của
đó, nếu không thì theo quy định của khoản này, được ghi trong các quy tắc, quy
định và thủ tục đó, nếu không thì theo quy định được xác định bởi một quyết
định của Hội đồng được thông qua bằng consensus (thỏa thuận).
g) Trong trường hợp còn chưa thật rõ một vấn đề có thuộc
phạm vi của các điểm a, b, c hay d không, thì vấn đề được coi như thuộc quy
định đòi hỏi, tùy trường hợp, theo quy định đòi hỏi, tùy từng trường hợp, theo
đa số cao nhất hay bằng consensus (thỏa thuận).
9. Hội đồng định ra một thử tục cho phép một thành viên của Cơ
quan quyền lực không có đại diện ở Hội đồng được tham dự vào một cuộc họp của
Hội đồng khi thành viên này có yêu cầu được tham dự, hoặc khi Hội đồng xét một
vấn đề có liên quan đặc biệt đến thành viên này. Đại diện của thành viên này có
thể tham gia vào các cuộc tranh luận nhưng không được quyền bỏ phiếu.
1. Hội đồng là cơ quan chấp hành của Cơ quan quyền lực có
quyền căn cứ vào Công ước và chính sách chung do Đại hội đồng xác định, định ra
các chính sách riêng mà Cơ quan quyền lực phải theo đối với mọi vấn đề hay mọi
việc thuộc thẩm quyền của mình.
2. Ngoài ra, Hội đồng còn:
a) Giám sát và tổ chức phối hợp việc áp dụng phần này đối
với tất cả các vấn đề và các việc thuộc thẩm quyền của Cơ quyền lực và lưu ý
Đại hội đồng về những trường hợp không tuân thủ;
b) Đề nghị lên Đại hội đồng danh sách các ứng cử viên vào
chức vụ Tổng thư ký;
c) Giới thiệu lên Đại hội đồng các ứng cử viên vào các chức
vụ ủy viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc xí nghiệp;
d) Tùy theo điều kiện thích hợp, và có lưu ý đúng mức đến
các đòi hỏi về tiết kiệm và kém hiệu quả, lập ra các cơ quan phụ trợ xét thấy
cần thiết để thi hành các chức năng của mình theo đúng phần này. Đối với thành
phần của các cơ quan này, cần nhấn mạnh đến sự cần thiết là các ủy viên phải có
trình độ và tinh thông trong những lĩnh cực kỹ thuật mà các cơ quan đó phụ
trách, nhưng phải tính đến các nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý và đến
các lợi ích đặc biệt;
e) Thông qua quy chế nội bộ của mình, đặc biệt là xác định
cách thức chỉ định chủ tịch của Hội đồng;
f) Thay mặt Cơ quan quyền lực, ký kết các hiệp định với Liên
hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, trong phạm vi thẩm quyền của mình và với điều
kiện được Đại hội đồng phê chuẩn.
g) Xem xét các báo cáo của xí nghiệp và chuyển các báo cáo
đó lên Đại hội đồng có kèm theo các kiến nghị của mình;
h) Trình Đại hội đồng báo cáo hàng năm cũng như các báo cáo
đặc biệt mà Đại hội đồng đòi hỏi;
i) Chỉ đạo xí nghiệp theo đúng Điều 170;
j) Chuẩn y các kế hoạch làm việc theo đúng Điều 6 của Phụ
lục III. Hội đồng quyết định về từng kế hoạch làm việc trong thời hạn 60 ngày
sau ngày kế hoạch làm việc được Ủy ban pháp lý và kỹ thuật trình lên trong một
phiên họp Hội đồng theo đúng các thủ tục sau đây:
- Khi Ủy ban đề nghị chuẩn y một kế hoạch làm việc, thì kế
hoạch này xem như được Hội đồng chấp nhận, nếu không có ủy viên nào của Hội
đồng gửi lên cho Chủ tịch, trong thời hạn 14 ngày, một kháng nghị bằng văn bản
rõ ràng viện dẫn việc không tuân thủ các điều kiện ghi ở Điều 6 của Phụ lục
III. Nếu một kháng như vậy được đưa ra, thì thủ tục hòa giải được trù định ở
Điều 161, khoản 8, điểm e, được áp dụng. Nếu vào lúc kết thúc thủ tục đó mà vẫn
còn tiếp thủ tục kháng nghị, thì kế hoạch làm việc coi như được Hội đồng chuẩn
y, trừ khi được Hội đồng bác bỏ kế hoạch này bằng consensus (thỏa thuận), không
kể quốc gia hay các quốc gia đưa ra kế làm việc hay bảo trợ người đưa ra kế hoạch
đó;
- Khi Ủy ban kiến nghị bác bỏ một kế hoạch làm việc hay
không đưa ra kiến nghị, Hội đồng có thể chuẩn y kế hoạch làm việc theo đa số ba
phần tư số ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này bao
gồm đa số các ủy viên tham gia khóa họp;
- Chuẩn y các kế hoạch làm việc do Xí nghiệp đưa lên theo
đúng Điều 12 Phụ lục IV, áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết
về chi tiết) các thủ tục nói ở điểm j;
l) Thi hành việc kiểm soát đối với những hoạt động tiến hành
trong vùng theo đúng Điều 153, khoản 4 và các quy tắc, quy định và thủ tục của
Cơ quan quyền lực;
m) Dựa vào kiến nghị của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, theo
đúng Điều 150, điểm h, định ra các biện pháp cần thiết và thích hợp để bảo vệ các
quốc gia đang phát triển khỏi bị những tác động kinh tế bất lợi nói trong quy
định đó;
n) Dựa vào ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, làm các
kiến nghị gửi lên Đại hội đồng về việc lập chế độ bù trừ hay định ra các biện
pháp giúp đỡ người khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế
đã được trù định ở Điều 151, khoản 10;
o) i. Kiến nghị lên Đại hội đồng những quy tắc, quy định và
thủ tục về việc phân chia công bằng những mối lợi về tài chính và những mối lợi
kinh tế khác, thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, cũng như về các
khoản đóng góp được trù định ở Điều 82, đặc biệt lưu ý đến các lợi ích và nhu cầu
của các quốc gia đang phát triển và của các dân tộc chưa giành được độc lập
hoàn toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự trị khác;
ii. Thông qua và áp dụng tạm thời, trong khi chờ đợi Đại hội
đồng chuẩn y, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và mọi
điều sửa đổi đối với những văn bản này, có lưu ý đến những kiến nghị của Ủy ban
pháp lý và kỹ thuật hoặc của mọi cơ quan cấp dưới có liên quan khác. Những quy
tắc, quy định và thủ tục này đề cập việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong
Vùng, cũng như việc quản lý tài chính và hành chính nội bộ của quy tắc, quy
định và thủ tục liên quan đến việc thăm dò và khai thác các khối đa kim. Các
quy tắc, quy định, thủ tục thăm dò và khai thác mọi tài nguyên ngoài các khối
đa kim được thông qua trong một thời hạn 3 năm kể từ ngày Cơ quan quyền lực
nhận được đơn của một trong các ủy viên của mình về vấn đề này. Các quy tắc,
quy định và thủ tục đó có hiệu lực tạm thời đến khi được Đại hội đồng chuẩn y
hoặc đến khi được Hội đồng sửa đổi dưới ánh sáng các quan điểm mà Đại hội đồng
phát biểu;
p) Quan tâm đến việc thanh toán tất cả các khoản tiền do Cơ quan
quyền lực nợ hay phải trả cho Cơ quan quyền lực, về các hoạt động được thực
hiện theo đúng phần này;
q) Tiến hành lựa chọn giữa những người yêu cầu cấp giấy phép
sản xuất theo Điều 7 của Phụ lục III, trong những trường hợp được trù định
trong điều đó;
r) Đệ trình dự án ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực
lên Đại hội đồng để được phê chuẩn;
s) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về chính sách phải
theo đối với mọi vấn đề hay mọi viện thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực;
t) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về việc đình chỉ thi hành
các quyền và đặc quyền gắn liền với tư cách ủy viên theo Điều 185;
u) Nhân danh Cơ quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển xét xử trong những trường hợp không tuân thủ;
v) Thông báo cho Đại hội đồng quyết định của Viện giải quyết
các tranh chấp liên quan đến đáy biển đã được giao cho xét xử theo điểm u, và có
những kiến nghị về các biện pháp mà Hội đồng thấy cần thiết phải thi hành;
w) Trong trường hợp khẩn cấp thì ra lệnh và tùy theo tình
hình, kể cả lệnh đình chỉ hay thay đổi các hoạt động, để đề phòng mọi thiệt hại
nghiêm trọng có thể gây ra cho môi trường biển vì các hoạt động tiến hành trong
Vùng;
x) Không cho các người ký kết hợp đồng hay xí nghiệp khai
thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn
đến hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển;
y) Thành lập một cơ quan phụ trợ chuyên trách việc dự thảo
những quy tắc, thủ tục và quy định tài chính có liên quan đến:
i. Việc quản lý tài chính theo đúng các Điều 171 đến 175; và
ii. Các thể thức tài chính được trù định trong Điều 134 và Điều
17, khoản 1, điểm c, của phụ lục III;
z) Bố trí các bộ máy thích hợp để điều khiển và giám sát một
đoàn thanh tra làm nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành trong Vùng để xác
định xem phầm này, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và
các điều kiện của các hợp đồng được ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân
thủ không.
1. Các cơ quan của Hội đồng thành lập gồm có:
a) Một Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế;
b) Một Ủy ban pháp lý và kỹ thuật.
2. Mỗi ủy ban gồm 15 ủy viên do Hội đồng bầu ra trong số các
ứng cử viên do các quốc gia thành viên giới thiệu. Tuy nhiên, nếu cần thiết,
Hội đồng có thể quyết định mở rộng các thành phần của Ủy ban này hay ủy ban kia,
nhưng phải tính đến yêu cầu về tiết kiệm và về hiệu quả.
3. Các ủy viên của mỗi ủy ban phải có trình độ chuyên môn
cần thiết trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của ủy ban. Để bảo đảm cho các
ủy ban thực hiện chức năng có hiệu quả, các quốc gia thành viên cử các ứng cử
viên tinh thông nghiệp vụ nhất, có trình độ chuyên môn cần thiết trong các lĩnh
vực tương ứng.
4. Khi lựa chọn, cần phải tính đến sự cần thiết phải phân bổ
các thành viên công bằng theo địa lý và đại diện được cho các lợi ích đặc biệt.
5. Không một quốc gia thành viên nào có thể giới thiệu quá một
ứng cử viên vào cùng một ủy ban. Không ai có thể được bầu vào quá một ủy ban.
6. Các ủy viên của ủy ban được bầu với nhiệm kỳ là 5 năm. Họ
có thể được bầu lại một nhiệm kỳ mới.
7. Trong trường hợp một ủy viên của một ủy ban bị chết, bất
lực hay từ chức trước khi hết nhiệm kỳ, thì Hội đồng bầu một ủy viên của cùng
khu vực địa lý hay đại diện cho cùng loại lợi ích để tiêp tục hoàn thành nhiệm kỳ
của ủy viên trước.
8. Các ủy viên của các ủy ban không được có lợi ích tài
chính trong bất kỳ hoạt động nào liên quan đến việc thăm dò và khai thác ở
Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với ủy ban mà họ là ủy viên, họ không được
phép tiết lộ một bí mật công nghiệp nào hay số liệu nào thuộc sở hữu công
nghiệp đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14 của Phụ lục III,
cũng không được tiết lộ các tin tức bí mật mà họ biết được do chức trách của họ
ngay cả sau khi họ đã thôi việc cũng vậy.
9. Mỗi ủy ban phải làm tròn chức năng của mình theo đúng các
nguyên tắc và các chỉ thị do Hội đồng quyết định.
10. Mỗi ủy ban soạn thảo và trình lên Hội đồng thông qua các
quy tắc và quy định cần thiết để ủy ban hoạt động được tốt.
11. Các thủ tục ra quyết định của các ủy ban do các quy tắc,
quy định và các thủ tục của cơ quan quyền lực quy định. Nếu có thể được thì những
kiến nghị gửi lên Hội đồng phải kèm theo một bản trình bày tóm tắt những ý kiến
khác nhau trong ủy ban.
12. Bình thường, các ủy ban làm việc ở trụ sở của Cơ quan
quyền lực và phải nhóm họp theo sự cần thiết để hoàn thành chức năng của mình
một cách có hiệu quả.
13. Trong việc thi hành chức năng của mình, nếu có thể được
thì mỗi ủy ban tham khảo ý kiến của ủy ban khác hay mọi cơ quan có thẩm quyền
của Liên hợp quốc và của các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc hoặc mọi tổ
chức quốc tế có thẩm quyền trong lĩnh vực xem xét.
1. Các ủy viên của ủy ban kế hoạch hóa kinh tế cần có trình
độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt khai thác mỏ, quản lý các tài nguyên
khoáng sản, thương mại quốc tế và về kinh tế quốc tế. Hội đồng cố gắng bảo đảm
cho Ủy ban, qua thành phần của mình, có trình độ nghiệp vụ cần thiết một cách
đồng bộ. Trong số ủy viên của Ủy ban phải có ít nhất hai công dân của quốc gia
đang phát triển mà nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào việc xuất khẩu các loại
khoáng sản trong Vùng.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội đồng, đề xuất các biện pháp thực hiện
các quyết định được thông qua theo đúng Công ước có liên quan đến các hoạt động
tiến hành trong Vùng;
b) Nghiên cứu các xu hướng của cung, cầu và giá cả của các
khoáng sản có thể lấy từ Vùng, cũng như các nhân tố có tác động đến các dữ kiện
này, có lưu ý đến các lợi ích của các nước nhập khẩu, cũng như của các nước
xuất khẩu, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong số các nước đó;
c) Xem xét mọi tình huống có thể gây ra những ảnh hưởng bất
lợi đã đề cập ở Điều 150, điểm h, do quốc gia thành viên hay các quốc gia thành
viên hữu quan đã lưu ý Ủy ban và gửi các kiến nghị thích hợp lên Hội đồng;
d) Đề xuất với Hội đồng để đệ trình lên Đại hội đồng, như được
trù định trong Điều 151, khoản 10, một chế độ bù trừ có lợi cho các nước đang
phát triển mà các hoạt động tiến hành trong Vùng đã gây nên những ảnh hưởng bất
lợi hoặc là các biện pháp giúp đỡ khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
điều chỉnh kinh tế, và gửi lên Hội đồng những kiến nghị cần thiết để thực hiện,
trong những trường hợp cụ thể, chế độ bù trừ hay các biện pháp giúp đỡ đã được
Đại hội đồng chấp nhận.
1. Các ủy viên của Ủy ban pháp lý và kỹ thuật phải có trình
độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt thăm dò, khai thác và chế biến tài
nguyên khoáng sản, về hải dương học và về việc bảo vệ môi trường biển hoặc về
những vấn đề kinh tế hay pháp lý liên quan đến các hoạt động khai thác quặng ở
biển hay trong những lĩnh vực có liên quan khác. Hội đồng cố gắng bảo đảm cho
Ủy ban qua thành phần của mình có trình độ nghiệp vụ cần thiết một cách đồng
bộ.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội đồng, soạn thảo các kiến nghị lên
Hội đồng về việc thi hành các chức năng của Cơ quan quyền lực;
b) Xem xét các kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản
có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng theo đúng Điều 153, khoản 3
và trình lên Hội đồng các kiến nghị thích hợp. Ủy ban chỉ dựa vào những quy
định trong Phụ lục III, để chuẩn bị các kiến nghị và trình lên Hội đồng một báo
cáo đầy đủ về các kiến nghị đó;
c) Theo yêu cầu của Hội đồng, giám sát các hoạt động tiến
hành trong Vùng, nếu có thể được, thì hỏi ý kiến và hợp tác với mọi thực thể
hay cá nhân tiến hành các hoạt động này hay với quốc gia hay các quốc gia hữu
quan, và làm báo cáo gửi lên Hội đồng;
d) Đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động đã
tiến hành hoặc đang tiến hành trong Vùng;
e) Làm các kiến nghị gửi lên Hội đồng về việc bảo vệ môi
trường biển, có chú ý đến các ý kiến của các chuyên gia được thừa nhận;
f) Soạn thảo và đệ trình lên Hội đồng các quy tắc, quy định
và thủ tục nêu ở Điều 162, khoản 2, điểm o, có tính đến tất cả các yếu tố thích
hợp, kể các việc đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động tiến
hành trong Vùng;
g) Qua từng thời kỳ, xem xét lại những quy tắc, quy định và
thủ tục này và kiến nghị lên Hội đồng những điều sửa đổi mà mình xét thấy cần
thiết hay nên làm;
h) Gửi các kiến nghị lên Hội đồng liên quan đến việc bố trí
một chương trình giám sát bao gồm việc quan sát, đo đạc, đánh giá và phân tích
định kỳ bằng những phương pháp khoa học được thừa nhận đối với những nguy cơ
hay ảnh hưởng của các hoạt động tiến hành trong Vùng về mặt ô nhiễm môi trường
biển, bảo đảm cho các quy định hiện có được thích hợp và được tôn trọng, và
việc phối hợp thực hiện chương trình giám sát, một khi chương trình này được
Hội đồng chuẩn y;
i) Kiến nghị lên Hội đồng để Hội đồng nhân danh cơ quan
quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh chấp có liên quan đến đáy biển xét
xử, đặc biệt lưu ý đến Điều 187, theo đúng phần này và các phụ lục có liên quan
đến phần này;
j) Trình lên Hội đồng các kiến nghị về các biện pháp thi
hành sau khi Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển được giao
giải quyết theo điểm i đã ra quyết định;
k) Kiến nghị lên Hội đồng để trong trường hợp khẩn cấp, Hội
đồng ra lệnh, kể cả lệnh đình chỉ hoặc sửa đổi các hoạt động nếu cần, nhằm
phòng ngừa bất kỳ tổn thất nghiêm trọng nào có thể gây ra cho môi trường biển
do các hoạt động tiến hành trong Vùng; Hội đồng ưu tiên xem xét các kiến nghị
này;
l) Kiến nghị lên Hội đồng không cho những người ký kết hợp
đồng hay Xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để
cho rằng điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ gây ra tổn thất nghiêm trọng cho môi trường
biển;
m) Gửi các kiến nghị đó lên Hội đồng liên quan đến việc chỉ
đạo và giám sát một đoàn thanh tra có nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành
trong Vùng và có nhiệm vụ xác định xem phần này, các quy tắc, quy định và thủ
tục của Cơ quan quyền lực và các điều khoản, điều kiện của mọi hợp đồng đã ký
kết với Cơ quan quyền lực có được tuân thủ không;
n) Tính toán sản lượng tối đa và thay mặt Cơ quan quyền lực cấp
giấy phép sản xuất theo Điều 151, từ khoản 2 đến khoản 7, một khi Hội đồng đã
tiến hành sự lựa chọn cần thiết, nếu như cần phải chọn, trong số những người
yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo đúng Điều 7 của Phụ lục III.
3. Theo yêu cầu của mọi quốc gia thành viên mọi bên hữu quan
khác, các ủy viên của Ủy ban, khi thực hiện chức trách giám sát và thanh tra
của mình phải cho một đại diện của quốc gia hay của bên hữu quan này tham dự.
1. Ban thư ký của Cơ quan quyền lực gồm có một Tổng thư ký
và số nhân viên theo sự cần thiết của Cơ quan quyền lực.
2. Tổng thư ký do Đại hội đồng bầu ra trong số các ứng cử
viên do Hội đồng đề nghị với nhiệm kỳ là 4 năm và có thể được bầu lại.
3. Tổng thư ký là viên chức cao nhất của Cơ quan quyền lực
và hoạt động với tư cách này trong tất cả các cuộc họp của Đại hội đồng và Hội
đồng và của mọi cơ quan phụ trợ. Tổng thư ký thực hiện mọi chức trách hành
chính khác mà cơ quan này giao cho.
4. Tổng thư ký trình lên Đại hội đồng một báo cáo hàng năm
về hoạt động của Cơ quan quyền lực.
1. Nhân viên của Cơ quan quyền lực bao gồm những người có trình
độ nghiệp vụ trong các lĩnh vực khác mà Cơ quan quyền lực cần để thi hành các
chức năng quản lý của mình.
2. Căn cứ cao nhất trong vấn đề tuyển lựa và xác định các điều
kiện sử dụng nhân viên là bảo đảm cho Cơ quan quyền lực có những nhân viên phục
vụ có năng lực làm việc cao nhất, tinh thông và liêm khiết nhất. Ngoài căn cứ
này, phải tính đến tầm quan trọng của việc tuyển lựa trên cơ sở địa lý càng
rộng rãi càng tốt.
3. Nhân viên do Tổng thư ký bổ nhiệm. Các điều kiện và thể thức
bổ nhiệm, trả lương và thải hồi phải phù hợp với các quy tắc, quy định và thủ
tục của Cơ quan quyền lực.
1. Trong khi thực hiện chức trách của mình, Tổng thư ký và nhân
viên không được xin hay nhận chỉ thị của bất kỳ một chính phủ nào hay một nguồn
nào khác ngoài Cơ quan quyền lực. Tổng thư ký và nhân viên tránh mọi hành vi
không phù hợp với tư cách các viên chức quốc tế và họ chỉ chịu trách nhiệm đối
với Cơ quan quyền lực. Mỗi quốc gia thành viên cam kết tôn trọng tính chất quốc
tế thuần túy của các chức trách của Tổng thư ký và nhân viên của Cơ quan quyền
lực và cam kết không tìm cách gây ảnh hưởng đến họ trong khi họ thi hành nhiệm
vụ. Mọi hoạt động thiếu trách nhiệm của một viên chức được đưa ra trước một tòa
án hành chính được chỉ định theo các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực.
2. Tổng thư ký và nhân viên không được có những lợi lộc tài
chính trong một hoạt động nào liên quan đến việc thăm dò và khai thác tiến hành
trong Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với Cơ quan quyền lực, họ không được
tiết lộ một bí mật nào, một số liệu nào thuộc sở hữu công nghiệp và đã được
chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14, Phụ lục III và một thông tin
mật nào khác mà họ biết do các chức trách của họ ngay cả sau khi đã thôi việc
cũng vậy.
3. Nếu một viên chức của Cơ quan quyền lực có những thiếu
sót đối với các nghĩa vụ nói ở khoản 2 thì, theo yêu cầu của một quốc gia thành
viên bị thiệt hại sao thiếu sót đó, hay theo yêu cầu của một tự nhiên nhân hay
pháp nhân do một quốc gia thành viên bảo trợ theo Điều 153, khoản 2, điểm b bị
thiệt hại do thiếu sót này, Cơ quan quyền lực sẽ truy tố viên chức này trước
một tòa án được chỉ định theo các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực. Bên bị thiệt hại có quyền tham gia vào việc tố tụng, nếu tòa án kiến
nghị, Tổng thư ký phải thải hồi nhân viên đó.
4. Các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực
trù định các thể thức áp dụng điều này.
1. Đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền
lực, Tổng thư ký, sau khi được Hội đồng phê chuản, ký các thỏa thuận để tham
khảo ý kiến và hợp tác với các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ
được Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc thừa nhận.
2. Bất kỳ tổ chức nào mà Tổng thư ký đã ký với họ một thỏa
thuận theo khoản 1 đều có thể chỉ định các đại diện tham dự với tư cách là quan
sát viên vào các hội nghị của các cơ quan thuộc Cơ quan quyền lực, theo đúng
quy chế nội bộ của các cơ quan này. Các thủ tục được định ra để cho các tổ chức
đó trình bày quan điểm của họ trong những trường hợp thích hợp.
3. Tổng thư ký có thể phân phát cho các quốc gia thành viên
các báo cáo bằng văn bản của các tổ chức phi chính phủ nói ở khoản 1 về các vấn
đề thuộc thẩm quyền riêng của họ và có liên quan đến công việc của Cơ quan
quyền lực.
1. Xí nghiệp là cơ quan của Cơ quan quyền lực trực tiếp tiến
hành các hoạt động trong Vùng theo Điều 153, khoản 2, điểm a, cũng như các hoạt
động vận chuyển, chế biến và buôn bán các khoáng sản được khai thác trong Vùng.
2. Trong khuôn khổ của Cơ quan quyền lực là pháp nhân quốc
tế, Xí nghiệp có tư cách pháp nhân được trù định trong Phụ lục IV. Xí nghiệp
hoạt động theo đúng Công ước và các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực, cũng như theo đúng chính sách chung do Đại hội đồng quyết định, và Xí
nghiệp tuân theo các chỉ thị của Hội đồng và chịu sự kiểm soát của cơ quan này.
3. Xí nghiệp có cơ quan chính đóng tại trụ sở của Cơ quan
quyền lực.
4. Theo đúng Điều 173, khoản 2 và Điều 11 của Phụ lục IV, Xí
nghiệp có những nguồn tài chính cần thiết để thực hiện các chức năng của mình,
và có các kỹ thuật đã được chuyển giao theo Điều 144 và theo các quy định thích
hợp khác của Công ước.
Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực gồm có:
a) Các khoản đóng góp của các thành viên của Cơ quan quyền
lực được quy định theo đúng Điều 160, khoản 2, điểm e;
b) Những thu nhập mà Cơ quan quyền lực thu được, theo Điều
13 của Phụ lục III, từ các hoạt động tiến hành trong Vùng;
c) Các khoản tiền do Xí nghiệp chuyển khoản theo Điều 10 của
Phụ lục IV;
d) Vốn đi vay theo Điều 174;
e) Các khoản đóng góp tự nguyện của các quốc gia thành viên
hay của các nguồn khác; và
f) Các khoản nộp vào một quỹ bù trừ theo đúng Điều 151,
khoản 10 mà Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế phải kiến nghị các nguồn.
Tổng thư ký lập dự án ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền
lực và trình lên Hội đồng. Hội đồng xem xét dự án đó và đệ trình lên Đại hội
đồng với những kiến nghị của mình để Đại hội đồng phê chuẩn theo Điều 160,
khoản 2, điểm h.
1. Những khoản đóng góp nói ở Điều 171, điểm a được nộp vào
một tài khoản đặc biệt và dùng để trang trải các khoản cho hành chính của Cơ
quan quyền lực cho đến khi Cơ quan quyền lực có được các khoản thu từ các nguồn
khác đủ để trang trải các khoản chi này.
2. Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực trước tiên dùng
để thanh toán những khoản chi hành chính. Ngoài những khoản đóng góp nói ở Điều
171, điểm a, quỹ còn lại sau khi thanh toán các chi phí hành chính có thể dùng,
đặc biệt để:
a) Phân chia theo đúng Điều 140 và Điều 160, khoản 2, điểm
g;
b) Cấp cho Xí nghiệp các nguồn vốn nói ở Điều 170, khoản 4;
c) Đền bù cho các quốc gia đang phát triển theo đúng Điều
151 khoản 10 và với Điều 160, khoản 2, điểm l.
1. Cơ quan quyền lực có quyền vay vốn.
2. Đại hội đồng ấn định giới hạn của quyền này trong quy chế
tài chính được thông qua theo Điều 160, khoản 2, điểm f.
3. Hội đồng thực hiện quyền vay vốn này.
4. Các quốc gia thành viên không chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của Cơ quan quyền lực.
Mỗi năm các báo cáo sổ sách và tài khoản của Cơ quan quyền
lực, kể cả các bản quyết toán tài chính hàng năm được một kiểm soát viên độc
lập do Đại hội đồng cử ra kiểm tra.
Cơ quan quyền lực là pháp nhân quốc tế và có quyền về pháp
lý cần thiết để thi hành chức năng và đạt tới các mục đích của mình.
Để có thể thực hiện các chức năng của mình, Cơ quan quyền lực
được hưởng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên những đặc quyền và quyền
miễn trừ được trù định trong tiểu mục này. Những đặc quyền và quyền miễn trừ
liên quan đến Xí nghiệp được trù định ở Điều 13 của Phụ lục IV.
Cơ quan quyền lực cũng như tài sản và của cải của mình đều
được hưởng quyền miễn trừ về mặt tài phán và tịch thu tài sản, trừ phạm vi mà
Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này trong một trường hợp đặc
biệt.
Những của cải và tài sản của Cơ quan quyền lực, dù chúng nằm
ở đâu và người giữ chúng là ai, đều được miễn khám xét, trưng thu, tịch thu,
tước đoạt và mọi hình thức sai áp khác theo một biện pháp của cơ quan hành pháp
hay lập pháp.
Tài sản và của cải của Cơ quan quyền lực được miễn mọi sự
kiểm soát, hạn chế, quy định hay lệnh tạm hoãn nợ nào.
1. Hồ sơ của Cơ quan quyền lực dù chúng được cất giữ ở đâu
đều bất khả xâm phạm.
2. Các số liệu thuộc sở hữu công nghiệp, các thông tin thuộc
bí mật công nghiệp của Cơ quan quyền lực và các thông tin tương tự, cũng như
các hồ sơ về nhân sự không được để trong các cơ quan lưu trữ đại chúng.
3. Đối với các thông tin chính thức, mỗi quốc gia thành viên
dành cho Cơ quan đối xử ít nhất cũng thuận tiện như đối với các tổ chức quốc tế
khác.
Đại biểu các quốc gia thành viên tham dự các cuộc họp của
Đại hội đồng, của Hội đồng hoặc của các cơ quan của Đại hội đồng hay của Hội
đồng, cũng như Tổng thư ký và nhân viên của Cơ quan quyền lực, được hưởng trên
lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên:
a) Quyền miễn trừ về tài phán và tịch thu tài sản đối với
các hành động của họ trong khi thi hành các chức vụ của mình, trừ phạm vi quốc
gia mà họ đại diện hoặc Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này
trong một trường hợp đặc biệt;
b) Các quyền miễn trừ như các quyền đã được quốc gia mà trên
lãnh thổ quốc gia đó họ có mặt, dành cho các đại diện, công chức và nhân cấp
tương đương của các quốc gia thành viên khác về các điều kiện nhập cư, các thủ
tục đăng ký người nước ngoài và các nghĩa vụ phục vụ quốc gia, cũng như các
điều kiện thuận tiện như thế liên quan đến quy định về hối đoái và về di
chuyển, trừ khi họ là công dân của quốc gia hữu quan.
1. Trong khi thi hành chức năng của mình, Cơ quan quyền lực
cùng với của cải, tài sản và thu nhập của mình, cũng như những hoạt động và
giao dịch được Công ước này cho phép, đều được miễn mọi thứ thuế trực thu và
các tài sản mà Cơ quan quyền lực nhập khẩu hay xuất khẩu để sử dụng trong công
vụ đều được miễn mọi thứ thuế quan. Cơ quan quyền lực không thể yêu cầu miễn
bất cứ khoản tiền phải trả nào cho các dịch vụ mà họ được hưởng.
2. Đối với những việc mua của cải hay trả tiền dịch vụ của
Cơ quan quyền lực hay nhân danh Cơ quan quyền lực có một giá trị lớn, cần thiết
cho việc thực hiện chức năng của Cơ quan quyền lực và nếu giá các loại tài sản
đó hay giá dịch vụ đó bao gồm cả thuế, lệ phí hay thuế quan, thì các quốc gia
thành viên sẽ cố gắng hết sức thi hành những biện pháp thích hợp để miễn hay
hoàn lại các khoản thuế, lệ phí hay thuế quan. Các của cải nhập khẩu hay mua
theo chế độ miễn trừ được quy định ở điều này không được bán, chuyển nhượng
bằng cách nào khác trên lãnh thổ của quốc gia thành viên đã cho phép miễn thuế,
trừ khi việc đó được tiến hành theo các điều kiện đã thỏa thuận với quốc gia
thành viên này.
3. Các quốc gia thành viên không được thu một loại thuế trực
thu hay gián thu nào đánh vào tiền lương, tiền thù lao hay vào các khoản tiền
khác mà Cơ quan quyền lực trả cho Tổng thư ký và cho các nhân viên của mình,
cũng như cho các chuyên gia thực hiện những nhiệm vụ do Cơ quan quyền lực giao,
trừ khi họ là công dân của các nước đó.
Trong việc thanh toán các khoản đóng góp của mình cho Cơ
quan quyền lực, một quốc gia thành viên nộp chậm, thì không được tham gia vào
các cuộc bỏ phiếu, nếu tổng số tiền còn thiếu bằng hoặc cao hơn tổng số tiền
phải đóng góp cho 2 năm tròn đã qua. Đại hội đồng có thể cho phép thành viên
này tham gia bỏ phiếu, nếu Đại hội đồng xét thấy việc thiếu sót này là do những
hoàn cảnh nằm ngoài ý muốn của họ.
1. Một quốc gia vi phạm phần này một cách nghiêm trọng và
kéo dài thì có thể bị Đại hội đồng, theo kiến nghị của Hội đồng đình chỉ việc
hưởng các quyền và đặc quyền vốn có của thành viên.
2. Không một quyết định nào có thể được thi hành theo khoản
1, chừng nào mà Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển không xác
nhận rằng quốc gia thành viên hữu quan đã vi phạm phần này một cách nghiêm
trọng và kéo dài.
Mục này, phần XV và Phụ lục VI điều chỉnh quy chế của Viện
giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển và các cách thức mà Viện thi
hành thẩm quyền của mình,
Theo phần này và các phụ lục có liên quan, Viện giải quyết
các tranh chấp liên quan đến đáy biển có thẩm quyền xét xử những loại tranh chấp
về những hoạt động tiến hành trong Vùng sau đây:
a) Các vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan
đến việc giải thích hay áp dụng phần này và các phụ lục có liên quan;
b) Các vụ tranh chấp giữa một quốc gia thành viên và Cơ quan
quyền lực liên quan đến:
i. Các hành động hay thiếu sót của Cơ quan quyền lực hay của
một quốc gia thành viên được viện dẫn là đã vi phạm các quy định của phần này hay
các phụ lục có liên quan hay các quy tắc quy định hay thủ tục đã được Cơ quan
quyền lực thông qua theo đúng các quy định này; hoặc
ii. Các hành động của Cơ quan quyền lực được viện dẫn là đã
vượt quá thẩm quyền của mình hay đã lạm quyền;
c) Các vụ tranh chấp giữa các bên ký kết một hợp đồng, dù
các bên này là các quốc gia thành viên, là Cơ quan quyền lực hay Xí nghiệp, hay
các xí nghiệp của Nhà nước hoặc các tự nhiên nhân hay pháp nhân đã nêu ở Điều 153,
khoản 2, điểm b, liên quan đến:
i. Việc giải thích hay thi hành một hợp đồng hay một kế hoạch
làm việc; hoặc
ii. Các hành động hay thiếu sót của một bên ký kết hợp đồng
liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng và làm ảnh hưởng đến bên khác
hay trực tiếp gây tổn hại đến các lợi ích chính đáng của các bên khác đó;
d) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một người yêu
cầu được một quốc gia bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2, điểm b và đã thoản mãn
các điều kiện được quy định ở Điều 4, khoản 6 và Điều 13, khoản 2 của Phụ lục
III, có liên quan đến việc từ chối ký kết hợp đồng hay đến một vấn đề pháp lý
nảy sinh trong khi thương lượng về hợp đồng;
e) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một quốc gia
thành viên, một xí nghiệp Nhà nước hoặc một tự nhiên nhân hay pháp nhân do một
quốc gia thành viên bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2, điểm b, khi thấy rằng,
theo Điều 22 của Phụ lục III, việc tranh chấp này có đụng đến trách nhiệm của
Cơ quan quyền lực;
f) Bất kỳ tranh chấp nào khác mà Công ước đã trù định rõ
ràng Viện có thẩm quyền giải quyết.
1. Các vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên đề cập ở
Điều 187, điểm a có thể được đưa ra trước:
a) Một viện đặc biệt của Tòa án quốc tế về luật biển được
lập ra theo đúng các Điều 15 và 17 của Phụ lục VI, theo yêu cầu của các bên tranh
chấp; hay
b) Một viện ad – hoc (đặc biệt) của Viện giải quyết các
tranh chấp liên quan đến đáy biển được lập ra theo đúng Điều 36 của Phụ lục VI,
theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào.
2. a) Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng một hợp đồng nêu ở Điều 187, điểm c điểm nhỏ i theo yêu cầu của bất kỳ bên
tranh chấp nào, được đưa ra trước trọng tài thương mại bắt buộc, trừ khi các
bên tranh chấp có thỏa thuận khác, Tòa trọng tài thương mại xét xử một vụ tranh
chấp như thế không có thẩm quyền phán xét về một điểm giải thích Công ước. Nếu
vụ tranh chấp bao hàm một điểm giải thích Phần XI và các phụ lục có liên quan,
về các hoạt động tiến hành trong Vùng thì điểm này phải được chuyển lên cho
Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển quyết định.
b) Lúc khởi tố hay trong quá trình tiến hành một thủ tục
trọng tài như vậy, nếu như Tòa trọng tài thương mại, theo yêu cầu của một trong
những bên tranh chấp hoặc tự ý mình, thấy rằng quyết định của mình phụ thuộc
vào một quyết định của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển,
thì Tòa trọng tài này phải chuyển đổi quan điểm này lên cho Viện nói trên quyết
định. Sau đó, Tòa trọng tài sẽ ra phán quyết theo đúng quyết định của Viện;
c) Nếu trong hợp đồng thiếu một điều quy định về thủ tục
trọng tài có thể áp dụng cho vụ tranh chấp, thì công việc trọng tài được thực
hiện theo quy chế trọng tài của CNUDCI hay theo bất kỳ quy chế trọng tài nào
khác có thể được trù định trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển không
có thẩm quyền phán xét đối với việc Cơ quan quyền lực, theo đúng phần này, thi
hành các quyền tùy ý quyết định của mình; trong bất kỳ trường hợp nào, Viện này
cũng không thể thay thế cho Cơ quan quyền lực trong việc thi hành các quyền tùy
ý quyết định nói trên. Không phương hại đến Điều 191, khi thi hành thẩm quyền
được thừa nhận theo Điều 187, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy
biển không được phán xét đối với các vấn đề xem một quy tắc, quy định hay một
thủ tục của Cơ quan quyền lực có phù hợp với Công ước hay không và không thể
tuyên bố quy tắc, quy định hay thủ tục này là vô hiệu. Thẩm quyền của Viện chỉ
giới hạn trong việc xác định xem việc áp dụng quy tắc, quy định hay thủ tục của
Cơ quan quyền lực trong những trường hợp riêng biệt có ngược lại với những
nghĩa vụ theo hợp đồng của các bên tranh chấp hay với các nghĩa vụ của họ theo
Công ước không và xét xử những trường hợp kháng cáo về việc không đủ thẩm quyền
hay lạm quyền, cũng như những yêu cầu bồi thường thiệt hại và những yêu cầu đền
bù khác do một trong các bên kiện bên kia vì thiếu sót trong việc thi hành
nghĩa vụ theo hợp đồng hay nghĩa vụ của họ theo Công ước.
1. Quốc gia thành viên bảo trợ cho một tự nhiên nhân hay
pháp nhân tham gia vào một vụ tranh chấp đã nêu ở Điều 187 được nhận thông báo
về vụ tranh chấp và có quyền tham gia vào trình tự tố tụng bằng cách trình bày
những nhận xét bằng văn bản hay bằng lời.
2. Khi một vụ kiện do một tự nhiên nhân hay pháp nhân được
một quốc gia thành viên khác bảo trợ, đệ đơn kiện một quốc gia thành viên về
một vụ tranh chấp đã nêu ở Điều 187, điểm c, thì quốc gia bị đơn có thể yêu cầu
quốc gia bảo trợ ra trước tòa nhân danh bên nguyên. Nếu không ra trước tòa
được, thì quốc gia bị đơn có thể ủy quyền cho một pháp nhân mang quốc tịch của
mình thay mặt.
Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển đưa ra
các ý kiến tư vấn theo yêu cầu của Đại hội đồng, hay Hội đồng về những vấn đề
pháp lý được đặt ra trong những thời hạn ngắn nhất.
Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
Các quốc gia có quyền thuộc chủ quyền khai thác các tài nguyên
thiên nhiên của mình theo chính sách về môi trường của mình và theo đúng nghĩa vụ
bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của mình.
1. Các quốc gia, tùy theo tình hình, thi hành riêng rẽ hay phối
hợp với nhau, tất cả các biện pháp phù hợp với Công ước, cần thiết để ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, sử dụng các phương tiện thích
hợp nhất mà mình có, và cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này.
2. Các quốc gia thi thành mọi biện pháp cần thiết để cho các
hoạt động thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình không gây tác hại
do ô nhiễm cho các quốc gia khác và cho môi trường của họ và để cho nạn ô nhiễm
nảy sinh từ những tai nạn hay từ các hoạt động thuộc quyền tài phán hay quyền
kiểm soát của mình không lan ra ngoài các khu vực mà mình thi hành các quyền
thuộc chủ quyền theo đúng Công ước.
3. Các biện pháp được sử dụng để thi hành phần này cần phải
nhằm vào tất cả các nguồn gây ra ô nhiễm môi trường biển. Nhất là, chúng bao
gồm những biện pháp nhằm hạn chế đến mức cao nhất:
a. Việc thải bỏ từ khí quyển xuống hay đi qua khí quyển do nhận
chìm các chất độc có hại và độc hại, đặc biệt là các chất không bị phân hủy từ
các nguồn ở đất liền;
b. Ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra, đặc biệt là những biện pháp
nhằm đề phòng các sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, nhằm đảm bảo an
toàn cho các hoạt động trên biển, ngăn ngừa những hành động thải bỏ, dù cố ý
hay không, và quy định về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị và việc khai thác
các tàu thuyền;
c. Ô nhiễm bắt nguồn từ các thiết bị hay phương tiện được sử
dụng để thăm dò hay khai thác các tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển này, đặc biệt là các biện pháp nhằm phòng ngừa các sự cố và đối
phó với các trường hợp khẩn cấp, đảm bảo an toàn cho các hoạt động trên biển,
và quy định về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị và việc khai thác các thiết bị
hay phương tiện này,và thành phần nhân viên được sử dụng ở đó;
d. Ô nhiễm xuất phát từ các thiết bị hay phương tiện khác
hoạt động trong môi trường biển, đặt biệt là những biện pháp nhằm phòng ngừa
những sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, bảo đảm an toàn cho các
hoạt động trên biển, và quy định về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị và khai
thác các thiết bị hay phương tiện này,và thành phần nhân viên được sử dụng ở
đó.
4. Khi thi hành các biện pháp phòng ngừa, hạn chế , hay chế
ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia tránh chấp cứ sự can thiệp vô lý nào
vào các hoạt động của các quốc gia khác đang thi hành các quyền hay đang thực
hiện nghĩa vụ của họ theo đúng Công ước.
5. Các biện pháp được thi hành theo đúng phần này bao gồm các
biện pháp cần thiết để bảo vệ và gìn giữ các hệ thống sinh thái hiếm hoi hay
mỏng manh cũng như điều kiện cư trú của các loài và các sinh vật biển khác đang
thoái hóa, có nguy cơ hay đang bị hủy diệt.
Khi thi hành các biện pháp để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự
ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia phải làm sao để không đùn đẩy, trực tiếp
hay gián tiếp, thiệt hại hay các nguy cơ từ vùng này sang vùng khác và không
được thay thế một kiểu ô nhiễm này bằng một kiểu ô nhiễm khác.
1. Các quốc gia thi hành mọi biện pháp cần thiết để ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển từ việc sử dụng các kỹ thuật
trong khuôn khổ quyền tài phán hay dưới sự kiểm soát của mình, hoặc do du nhập
cố ý hay vô tình vào một bộ phận môi trường biển các ngoại lai hoặc mới có thể
gây ra ở đó các thay đổi đáng kể và có hại.
2. Điều này không ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy định
của Công ước có liên quan đến các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển.
Các quốc gia hợp tác trên phạm vi thế giới và nếu có thể thì
trên phạm vi khu vực, trực tiếp hay qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền, trong việc hình thành và soạn thảo các quy tắc và các quy phạm, cũng như
các tập quán và thủ tục được kiến nghị mang tính chất quốc tế phù hợp với Công
ước, để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, có tính đến các đặc điểm có tính
chất khu vực.
Quốc gia nào biết được trường biệt môi trường biển đang có
nguy cơ sắp phải chịu những thiệt hại hay đã chịu những thiệt hại do ô nhiễm
thì phải lập tức thông báo cho các quốc gia khác mà mình xét thấy có nguy cơ
phải chịu những tổn thất này cũng như cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền.
Trong các trường hợp đã nêu ở Điều 198, các quốc gia ở trong
khu vực bị ảnh hưởng, theo khả năng của mình, và các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền hợp tác với nhau đến mức cao nhất nhằm loại trừ ảnh hưởng của ô nhiễm và
nhằm ngăn ngừa và giảm đến mức tối thiểu những thiệt hại. Nhằm mục đích này,
các quốc gia cần cùng nhau soạn thảo và xúc tiến các kế hoạch khẩn cấp để đối
phó với những tai nạn gây ra ô nhiễm môi trường biển.
Trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền, các quốc gia hợp tác với nhau nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu,
thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học và khuyến khích việc trao đổi
các thông tin và các dữ kiện về ô nhiễm môi trường biển. Các quốc gia cố gắng
tham gia tích cực vào các chương trình khu vực và thế giới nhằm thu được những
kiến thức cần thiết để xác định tính chất và phạm vi ô nhiễm, đối tượng có nguy
cơ bị ô nhiễm, những con đường mà nạn ô nhiễm đi qua, những nguy hiểm mà nạn ô
nhiễm chứa đựng và những phương thức khắc phục có thể có.
Lưu ý đến các thông tin và các dữ kiện thu được trong khi áp
dụng Điều 200, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền, các quốc gia hợp tác với nhau nhằm lập ra các tiêu chuẩn khoa học thích
hợp để xây dựng và soạn thảo các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ
tục được kiến nghị nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển.
Trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền, các quốc gia cần:
a. Đẩy mạnh các chương trình giúp đỡ cho các quốc gia đang
phát triển trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục, kỹ thuật và trong các lĩnh
vực khác nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển và nhằm ngăn ngừa, hạn chế và
chế ngự ô nhiễm biển. Sự giúp đỡ này đặc biệt gồm có:
i. Đạo tạo nhân viên khoa học và kỹ thuật của các quốc gia
này;
ii. Tạo điều kiện dễ dàng cho việc tham gia của các quốc gia
này vào các chương trình quốc tế thích hợp;
iii. Cung cấp cho các quốc gia này cơ sở vật chất và những điều
kiện thuận lợi cần thiết;
iv. Tăng cường khả năng tự sản xuất cơ sở vật chất nói trên
cho các quốc gia đó;
v. Giúp đỡ các ý kiến tư vấn và phát triển các phương tiện
vật chất liên quan đến các chương trình nghiên cứu, các chương trình giám sát liên
tục, chương trình giáo dục và các chương trình khác;
b. Thực hiện sự giúp đỡ thích hợp, đặc biệt là cho các quốc
gia đang phát triển, để giúp các quốc gia này giảm bớt đến mức tối thiểu những
ảnh hưởng của các tai biến lớn có nguy cơ gây ra một nạn ô nhiễm nghiêm trọng
cho môi trường biển;
c. Thực hiện sự giúp đỡ thích hợp, đặc biệt là cho các quốc gia
đang phát triển, để xây dựng các đánh giá về sinh thái học.
Để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển
hoặc để hạn chế đến mức tối thiểu các ảnh hưởng của nó, các tổ chức quốc tế
dành sự đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang phát triển về:
a. Việc trợ cấp vốn và các phương tiện giúp đỡ kỹ thuật
thích hợp; và
b. Việc sử dụng các cơ sở chuyên môn của mình.
1. Các quốc gia cần cố gắng hết sức mình và phù hợp với các
quyền của các quốc gia khác, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền, để quan sát, đo đạc, đánh giá và phân tích, bằng các phương
pháp khoa học được thừa nhận, các nguy cơ ô nhiễm môi trường biển hay những ảnh
hưởng của vụ ô nhiễm này.
2. Đặc biệt, các quốc gia phải thường xuyên giám sát những
tác động của mọi hoạt động mà họ cho phép hay họ tiến hành để xác định xem các
hoạt động này có nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường biển hay không.
Các quốc gia công bố các báo cáo về kết quả thu được trong
khi áp dụng Điều 204 hay, theo khoảng thời gian thích hợp, cung cấp các báo cáo
như vậy cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và các tổ chức quốc tế này cần
phải để cho mọi quốc gia khác sử dụng các báo cáo này.
Khi các quốc gia có những lý do xác đáng để cho rằng các
hoạt động đã dự tính thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình có quy
cơ gây ra một vụ ô nhiễm nghiêm trong hay làm thay đổi đáng kể và có hại đối
với môi trường biển, thì trong chừng mực có thể, các quốc gia này cần đánh giá
các tác động tiềm tàng cùa các hoạt động này đối với môi trường đó và cần báo
cáo lại những kết quả của những đánh giá này theo cách đã được quy định ở Điều
205.
1. Các quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường có nguồn gốc từ đất, kể cà các ô nhiễm
xuất phát từ các dòng sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải đổ, có
lưu ý đến các quy tắc và quy phạm cũng như các tập quán và thủ tục được kiến
nghị và chấp nhận trên phạm vi quốc tế.
2. Các quốc gia thi hành mọi biện pháp có thể cần thiết để
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm này.
3. Các quốc gia có cố gắng điều hòa các chính sách của mình
về mặt này ở mức độ khu vực thích hợp.
4. Đặc biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc gia cố gắng
thông qua các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến
nghị trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô
nhiễm bắt nguồn từ đất đối với môi trường biển, có tính đến các đặc điểm khu
vực, đến khả năng kinh tế của các quốc gia đang phát triển và các đòi hỏi về
phát triển kinh tế của các quốc gia này. Các quy tắc và quy phạm cũng như các những
tập quán và thủ tục được kiến nghị này tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời
kỳ, được xem xét lại.
5. Các luật, quy chế và các biện pháp cũng như các quy tắc,
quy phạm và các tập quán, thủ tục được kiến nghị đã nêu ở khoản 1, 2 và 4, bao
gồm những biện pháp nhằm hạn chế đến hết mức việc trút vào môi trường biển các
chất độc, có hại và độc hại, đặc biệt là các chất không thể phân hủy được.
Các quốc gia ven biển thông qua các luật và quy định để ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm đối với môi trường biển trực tiếp hay gián
tiếp do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây
ra, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình thuộc quyền tài
phán của mình theo các Điều 60 và 80.
Các quốc gia thi hành mọi biện pháp khác có thể cần thiết để
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự sự ô nhiễm này.
Các luật, quy định và biện pháp này không được kém hiệu quả
hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế hay các tập quán và thủ tục đã được kiến
nghị có tính chất quốc tế.
Các quốc gia cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt
này ở mức độ khu vực thích hợp.
Đặc biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc gia thông qua các
quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị, trên phạm vi
thế giới và khu vực, để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm môi trường
biển nói ở khoản 1. Các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được
kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
1. Các quy tắc, quy định và thủ tục quốc tế được thông qua
theo đính Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các
hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra. Các quy tắc, quy định và thủ tục này,
tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
2. Trong điều kiện tuân theo các quy định thích hợp của mục
này, các quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển này sinh từ các hoạt động tiến hành trong Vùng của các
tàu thuyền hay xuất phát từ các thiết bị, công trình hay các phương tiện khác,
tùy theo trường hợp, treo cờ của các quốc gia đó, đăng ký ở trên lãnh thổ hay thuộc
quyền của họ. Các luật và quy định này không được kém hiệu lực hơn các quy
tắc,quy định và thủ tục quốc tế nói ở khoản 1.
Các quốc gia thông qua các luật và quy định để phòng ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do sự nhận chìm.
Các quốc gia thi hành tất cả các biện pháp khác có thể cần
thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
Các luật, quy định và biện pháp phải bảo đảm rằng không một sự
nhận chìm nào có thể được tiến hành mà không được phép của các nhà đương cục có
thẩm quyền của các quốc gia.
Đặc biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao; các quốc gia cố gắng thông qua
trên phạm vi thế giới và khu vực các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ
tục được kiến nghị để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này. Các quy tắc và
quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết
mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
Việc nhận chìm ở trong lãnh hải và trong vùng đặc quyền về
kinh tế hay trên thềm lục địa không thể được tiến hành nếu không được sự đồng ý
rõ ràng trước quốc gia ven biển; quốc gia ven biển có quyền cho phép, quy định
và kiểm soát sự nhận chìm này, sau khi đã xem xét đúng mức vấn đề với các quốc
gia khác mà do những hoàn cảnh địa lý nên việc nhận chìm này có thể có những
tác hại đối với họ.
Các luật và quy định cũng như các biện pháp quốc gia không được
kém hiệu lực hơn các quy tắc và quy phạm có tính chất thế giới để ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
Hành động qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay
qua một hội nghị ngoại giao chung, các quốc gia thông qua các quy tắc và quy
phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các
tàu thuyền gây ra và quan tâm tạo điều kiện dễ dàng cho việc định ra, cũng theo
cách nói trên, nếu cần, các cách bố trí đường giao thông cho tàu thuyền nhằm
hạn chế đến mức tối thiểu nguy cơ xảy ra tai nạn có thể làm cho môi trường biển
kể cả vùng duyên hải bị ô nhiễm, và do đó mà đụng chạm đến những lợi ích có
liên quan của các quốc gia ven biển. Các quy tắc và quy phạm này, cũng theo
cách như thế, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại.
Các quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa,
hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền mà mình cho mang cờ
hay cho đăng ký gây ra. Các luật và quy định này không được kém hiệu quả hơn
các quy tắc và quy phạm quốc tế được chấp nhận chung và được xây dựng qua trung
gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung.
Nhằm mục đích ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường biển, các quốc gia khi đặt ra các điều kiện đặt biệt cho các tàu thuyền
nước ngoài đi vào các cảng hay nội thủy của mình hoặc công trình cảng cuối cùng
ở ngoài khơi, cần phải công bố đúng thủ tục về các điều kiện này và phải thông
báo cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền. Để điều hòa chính sách về mặt này,
khi hai hay nhiều quốc gia ven biển đặt ra các điều kiện như vậy dưới một hình thức
giống nhau, cần ghi rõ trong thông báo các quốc gia nào tham gia vào các thỏa
thuận như vậy. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mà mình cho
mang cờ hay đăng ký, khi tàu có mặt ở trong lãnh hải của một quốc gia tham gia
vào những thỏa thuận chung này, phải cung cấp, theo yêu cầu của quốc gia này,
những thông tin chỉ rõ liệu chiếc tàu này có hướng về một quốc gia thuộc cùng
khu vực tham gia vào các thỏa thuận này không và, nếu đúng, cần xác định xem
chiếc tàu này có đáp ứng đầy đủ các điều kiện do quốc gia này đặt ra liên quan
đến việc đi vào trong các cảng của mình không. Điều này được áp dụng không
phương hại đến việc tiếp tục thực hiện quyền đi qua không gây hại của một chiếc
tàu hay đến việc áp dụng Điều 25, khoản 2.
Trong việc thi hành chủ quyền đối với lãnh hải của mình, các
quốc gia ven biển có thể thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền nước ngoài gây ra, kể cả các
tàu thuyền đang thực hiện quyền đi qua không gây hại. Các luật và quy định này,
theo đúng với Mục 3 của phần II, không được cản trở việc đi qua không gây hại
của tàu thuyền nước ngoài.
Nhằm thực hiện việc áp dụng đã nói ở mục 6, các quốc gia ven
biển có thể thông qua các luật và quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm do tàu thuyền gây ra trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình; các luật
và quy định đó phải phù hợp và đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy định
quốc tế được chấp nhận chung và được xây dụng qua trung gian của các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung.
a. Khi các quy tắc và quy phạm quốc tế nói ở khoản 1 không
cho phép đáp ứng một cách thích đáng với những tình huống đặc biệt và nếu một
quốc gia ven biển có lý do chính đáng để cho rằng một khu vực đặc biệt và được
xác định rõ ràng trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình, đòi hỏi phải thông qua
các biện pháp bắt buộc đặc biệt để ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, vì
những lý do kỹ thuật được thừa nhận do những đặc điểm hải dương học và sinh
thái học của khu vực đó cũng như do việc sử dụng hay việc bảo vệ các tài nguyên
của khu vực đó và do đặc điểm riêng của luồng giao thông, thì quốc gia này, sau
khi thông qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đã tham khảo ý kiến
thích đáng với mọi quốc gia hữu quan, có thể gửi lên tổ chức này một thông báo
liên quan đến khu vực xem xét bằng cách đưa ra những chứng minh khoa học và kỹ
thuật, cũng như những chỉ dẫn về cá thiết bị thu nhận cần thiết để chứng minh. Trong
thời hạn 12 tháng sau khi nhận được thông báo, tổ chức quyết định xem tình hình
trong khu nvực được xem xét có đáp ứng các điều kiện kể trên không. Nếu tổ chức
quyết định đúng là như vậy, thì quốc gia ven biển có thể thông qua cho khu vực
này các luật và quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu
thuyền gây ra đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm hay tập quán về hàng
hải quốc tế mà tổ chức đã đưa ra áp dụng cho những khu vực đặc biệt.Các luật và
quy định này chỉ được áp dụng đối với các tàu thuyền nước ngoài sau một thời
hạn là 15 tháng kể từ ngày thông báo cho tổ chức;
Quốc gia ven biển công bố các giới hạn của các khu vực đặc
biệt và được xác định rõ ràng này;
Khi làm thông báo kể trên, quốc gia ven biển cần đồng thời
nói rõ cho tổ chức rằng họ có ý định thông qua, cho khu vực mà họ đề cập, những
luật và quy định bổ sung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
do tàu thuyền gây ra hay không. Các luật và quy dịnh bổ sung này có thể đề cập việc
thải bỏ hay những tập quán hàng hải, nhưng không bắt buộc các tàu thuyền nước
ngoài phải tôn trọng các tiêu chuẩn khác về mặt thiết kế, cấu trúc và trang bị,
ngoài các quy tắc và quy phạm quốc tế đẵ được chấp nhận chung; các luật và quy
định bổ sung này có thế áp dụng cho tàu thuyền nước ngoài, sau 15 tháng kể từ
ngày thông báo cho tổ chức này, với điều kiện là tổ chức này, trong một thời
hạn là 12 tháng, kể từ ngày được thông báo, đã chuẩn y các luật và quy định bổ sung
nói trên.
Các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở điều này còn cần trù
định nghĩa vụ phải thông báo ngay lập tức cho các quốc gia ven biển mà vùng
duyên hải hay các lợi ích liên quan của họ có nguy cơ bị những tai nạn trên
biển tác động đến, nhất là những tai nạn dẫn đến hay có nguy cơ dẫn đến những
việc thải bỏ.
Để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển có
nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển, các quốc gia thông qua các
luật và quy định áp dụng ở vùng trời thuộc chủ quyền của mình và áp dụng cho
các tàu thuyền mang cờ của mình hay cho các tàu thuyền hoặc các phương tiện bay
mà mình cho đăng ký, có tính đến các quy tắc quy phạm, cũng như những tập quán
và thủ tục được kiến nghị, và đã được chấp nhận trên phạm vi quốc tế vá có tính
đến an toàn hàng không.
Các quốc gia thi hành các biện pháp khác có thể cấn thiết để
ngăn giữ, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
Đặc biệt khi hành động qua trung gian cảu các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc gia cố gắng thông
qua các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị
trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm
này.
Các quốc gia đảm bảo việc áp dụng các luật và quy định và
thi hành theo đúng Điều 207; Các quốc gia thông qua luật và quy định và thi
hành các biện pháp cần thiết khác để đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy
phạm quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa, hạn
chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bắt nguồn từ đất.
Các quốc gia bảo đảm việc áp dụng các luật và quy định đã
được thông qua theo đúng Điều 208; họ thông qua các luật và các quy định và thi
hành các biện pháp cấn thiết khác để đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy
phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự
ô nhiễm môi trường do các hoạt động liên quan đến đáy biển và thuộc quyền tài
phán của mình, trực tiếp hay gián tiếp gây ra, hay xuất phát từ các đảo nhân
tạo, các thiết bị và công trình được đặt dưới quyền tài phán của mình theo các
Điều 60 và 80.
Việc áp dụng quy tắc, quy định và thủ tục quốc tế được xây
dựng theo đúng Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển
gây ra bởi các hoạt động tiến hành trong Vùng do phần này điều chỉnh.
Các luật và quy định được thông qua theo đúng Công ước và
các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian
của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn
ngừa,hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bởi việc nhận chìm do các đối
tượng sau đây thi hành:
Quốc gia ven biển, đối với việc nhận chìm nằm trong giới hạn
của lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình;
Quốc gia mà tàu mang cờ, đối với các tàu thuyền mang cờ của
mình hay các tàu hay phương tiện bay mà mình cho đăng ký;
Bất kỳ quốc gia nào, đối với việc đưa ra chất cặn bã hay các
chất khác lên lãnh thổ của mình hay lên các công trình cảng cuối cùng ra khơi.
Theo điều này, không quốc gia nào được khởi tố, khi vụ kiện
đã được một quốc gia khác khởi tố cũng theo đúng điều này.
Các quốc gia quan tâm đến việc tàu thuyền mang cờ của mình
hay được mình cho đăng ký tôn trọng các quy tắc và quay phạm quốc tế có thể áp
dụng, được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua
một hội nghị ngoại giao chung, cũng như các luật và quy định mà các quốc gia
này đã thông qua theo đúng Công ước để ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường biển do tàu thuyền gây ra và họ thông qua các quy luật và quy định, và
thi hành các biện pháp cần thiết để đem lại hiệu lực cho các quy luật và quy
định đó. Quốc gia mà tàu mang cờ phải quan tâm đến việc các quy tắc, quy phạm,
luật và quy định này được áp dụng một cách có hiệu quả, bất kể việc vi phạm xảy
ra ở đâu.
Đặc biệt, các quốc gia thi hành các biện pháp thích hợp để cấm
các tàu thuyền mang cờ của nước mình hay được mình cho đăng ký chuẩn bị nhổ neo,
chừng nào chúng không tuân theo đúng các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở
khoản 1, kể các quy định liên quan đến cách thiết kế, cấu trúc, và trang bị của
tàu thuyền.
Các quốc gia quan tâm đến việc các tàu thuyền mang cờ của
nước mình hay được mình cho đăng ký phải có đủ các chứng từ cấn thiết và được
cấp theo các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở khoản 1. Các quốc gia quan tâm đến
việc các tàu thuyền mang cờ nước mình phải được kiểm tra định kỳ xác minh xem
lời ghi chú ở trên các chứng từ này có phù hợp với tình trạng thực tế của con
tàu hay không. Các quốc gia khác chấp nhận các chứng từ này cũng có giá trị như
là những chứng từ mà mình cấp, trừ khi có lý do xác đáng để cho rằng tình trạng
con tàu trong một chừng mực quan trọng không phù hợp với các ghi chú ở trên các
chứng từ này.
Nếu một con tàu vi phạm các quy tắc và quy định được xây
dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị
ngoại giao chung, quốc gia cho tàu mang cờ, với điều kiện không phương hại tới
các Điều 218, 220 và 228, phải lập tức tiến hành mọi cuộc điều tra và, nếu thấy
cần thì, khởi tố đối với vụ vi phạm được suy đoán đó, bất kể nơi xảy ra vụ vi
phạm này hay vị trí mà nạn ô nhiễm do vụ vi phạm gây ra đã xảy ra hoặc được xác
nhận là ở đâu.
Khi tiến hành điều tra vụ vi phạm, quốc gia mà tàu mang cờ
có thể yêu cầu sự giúp đỡ của mọi quốc gia khác mà sự hợp tác có thể có ích để
làm sáng tỏ các hoàn cảnh của sự việc. Các quốc gia cố gắng đáp ứng các yêu cầu
thích hợp của các quốc gia mà tàu mang cờ.
Theo yêu cầu bằng văn bản của một quốc gia,các quốc gia phải
tiến hành điều tra về mọi vi phạm do tàu thuyền mang cờ của họ có thể đã phạm
phải. Quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành không chậm trễ việc truy tố về nội
dung chính của sự vi phạm đã được suy đoán theo đúng luật trong nước của mình,
nếu tin chắc rằng đã có đủ chứng cứ để tiến hành công việc này.
Quốc gia mà tàu mang cờ thông báo ngay cho quốc gia yêu cầu
và tổ chức quốc tế có thẩm quyền về vụ việc đã được khởi tố và kết quả của nó.
Tất cả các quốc gia đều được tiếp xúc với những thông tin đã được thông báo đó.
Những chế tài được trù định trong các quy luật và quy định
của quốc gia đối với các tàu thuyền mang cờ của mình cần phải nghiêm khắc để
hạn chế các vụ vi phạm,ở bất cứ đâu.
Khi một chiếc tàu tự ý có mặt ở trong một cảng hay ở một
công trình cảng cuối cùng ngoài khơi, quốc gia có cảng có thể mở một cuộc điều
tra và, khi có các chứng cứ để chứng minh, có thể khởi tố đối với bất kỳ sự
thải đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở ngoại nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc
quyền về kinh tế của mình, vi phạm các luật và quy phạm quốc tế có thể áp dụng,
được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội
nghị ngoại giao chung.
Quốc gia có cảng không thể khởi tố theo khoản 1 đối với một
vụ vi phạm do việc thải đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở ngoài nội thủy, lãnh
hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, hoặc là quốc gia mà tàu mang cờ hay
quốc gia đã chịu, hay có nguy cơ phải chịu, các tổn thất do việc thải đổ này
gây ra yêu cầu.
Khi một con tàu tự ý có mặt trong một cảng hay ở một công
trình cảng cuối cùng ngoài khơi, quốc gia có cảng cố gắng chấp nhận những đơn
yêu cầu điều tra của bất kỳ quốc gia nào khác về việc thải đổ có khả năng gây
ra vụ vi phạm đã nêu ở khoản 1 có thể đã xảy ra trong nội thủy, lãnh hải hay
vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia yêu cầu, và có thể đã gây ô nhiễm hay có
nguy cơ gây ô nhiễm cho các vùng này. Quốc gia có cảng cũng cố gắng chấp nhận
đơn yêu cầu điều tra của quốc gia mà tàu mang cờ về những vi phạm như thế, bất
kể các vụ vi phạm này có thể xảy ra ở đâu.
Hồ sơ điều tra do quốc gia có cảng tiến hành theo điều này
được chuyển cho quốc gia mà tàu mang cờ hay cho quốc gia ven biển theo yêu cầu
của các quốc gia này. Bất kỳ việc nào do quốc gia có cảng khởi tố dựa trên cơ sở
của cuộc điều tra này, có thể bị đình chỉ theo yêu cầu của quốc gia ven biển,
với điều kiện phải tuân theo các quy định của Mục 7, khi vụ vi phạm đã xảy ra
trong nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia ven biển
này. Khi đó những chứng cứ, hồ sơ về sự việc, cũng như mọi sự bảo lãnh hay đảm
bảo tài chính đã được gửi cho những nhà đương cục của quốc gia có cảng phải
được chuyển cho quốc gia ven biển. Sau khi chuyển giao hồ sơ, quốc gia có cảng
không theo đuổi vụ kiện nữa.
Với điều kiện tuân thủ Mục 7, khi các quốc gia, theo yêu cầu
hay tự ý mình xác định rằng một con tàu đang ở một trong các cảng của mình hay
ở một trong các công trình cảng cuối cùng ở ngoài khơi của mình đã vi phạm các
qui tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng liên quan đến khả năng đi biển của
tàu thuyền và có nguy cơ từ đó gây ra thiệt hại cho môi trường biển, cần thi
hành các biện pháp hành chính trong phạm vi khả năng của mình để ngăn không cho
chiếc tàu này rời bến. Các quốc gia này chỉ cho phép chiếc tàu này đi vào xưởng
sửa chữa thích hợp gần nhất và, một khi đã loại trừ các nguyên nhân gây ra vi
phạm, các quốc gia này cho phép chiếc tàu này tiếp tục hành trình của mình ngay
lập tức.
Khi một chiếc tàu tự ý có mặt trong cảng hay ở một công
trình cảng cuối cùng ngoài khơi với điều kiện tuân thủ Mục 7, quốc gia có cảng
có thể khởi tố về bất kỳ vi phạm nào đôi với các luật và quy định mà mình đã
thông qua theo đúng Công ước hay theo đúng các qui tắc và quy phạm quốc tế có
thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra,
nếu vụ vi phạm đã xảy ra trong lãnh hải hay trong vùng đặc quyền kinh tế của
mình.
Khi một quốc gia có lý do xác đáng cho rằng chiếc tàu trong
lúc đi qua lãnh hải của mình đã vi phạm các luật và quy định mà mình đã thông
qua theo đúng công ước hay các nguyên tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng
nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra thì quốc
gia này có thể tiến hành kiểm tra cụ thể chiếc tàu đã gây ra vụ vi phạm, nhưng
không làm phương hại đến việc áp dụng các quy định thích hợp của Mục 3 thuộc phần
II, và, khi có các chứng cứ để chứng minh được điều đó thì có thể khởi tố và
đặc biệt có thể ra lệnh giữ chiếc tàu theo đúng luật trong nước của mình, với
điều kiện phải tuân thủ theo quy định của Mục 7.
Khi một quốc gia có lý do xác đáng để cho rằng một con tàu
đi trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trong lãnh hải của mình đã vi phạm các
quy tắc và quy phạm quốc tế đó và đem lại hiệu lực cho chúng, quốc gia này có
thể yêu cầu con tàu cung cấp các thông tin liên quan đến lý lịch và cảng đăng ký
của tàu, cảng cuối cùng và cảng sắp ghé vào của tàu và các thông tin thích hợp
cần thiết khác để xác định có phải một vụ vi phạm đã xảy ra không.
Các quốc gia thông qua các luật và qui định và thi hành các
biện pháp cần thiết cho các tàu thuyền mang cờ của mình đáp ứng các yêu cầu về
thông tin đã nêu ở khoản 3.
Khi một quốc gia có các lý do xác đáng để cho rằng một chiếc
tàu đi trong đặc quyền kinh tế hay trong lãnh hải của mình đã gây ra một vụ vi
phạm trong vùng đặc quyền kinh tế đã nêu ở khoản 3 dẫn đến những việc thải đổ
nghiêm trọng vào môi trường biển, đã gây ra hoặc có nguy cơ gây ra ở môi trường
biển này một vụ ô nhiễm đáng kể, quốc gia có thể tiến hành kiểm tra cụ thể con
tàu để xác minh xem có phải đã có sự vi phạm không, nếu như con tàu từ chối không
đưa ra các thông tin, hay nếu những thông tin được cung cấp mâu thuẫn rõ ràng
với sự thật, và nếu các hoàn cảnh của sự việc lý giải cho sự kiểm tra này.
Khi có chứng cứ chứng tỏ rằng một chiếc tàu đi trong vùng
đặc quyền về kinh tế hay lãnh hải của một quốc gia đã gây ra trong vùng đặc
quyền về kinh tế một vụ vi phạm đã nêu ở khoản 3 dẫn đến những việc thải đổ gây
hoặc có nguy cơ gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho vùng duyên hải hay cho
các lợi ích có liên quan của quốc gia ven biển hay cho tất cả tài nguyên của
lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, thì quốc gia đó, với điều kiện
tuân thủ Mục 7 và nếu có các chứng cứ chứng minh được điều trên, có thể tiến
hành khởi tố, nhất là ra lệnh giữ con tàu lại theo đúng luật trong nước của
mình.
Mặc dù đã có khoản 6, trong mọi trường hợp mà các thủ tục
thích hợp đã được đặt ra qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền, hoặc
do thỏa thuận bằng mọi cách khác để tôn trọng các nghĩa vụ liên quan đến việc nộp
tiền bảo lãnh hay việc ký gửi một khoản bảo đảm tài chính thích hợp khác, nếu như
quốc gia ven biển có bị các thủ tục đó ràng buộc, thì quốc gia đó cho phép
chiếc tàu tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 cũng được áp dụng vào các luật và
quy định quốc gia được thông qua theo điều 211, khoản 6.
Không một qui định nào của phần này đụng đến các quyền của
các quốc gia, theo pháp luật quốc tế, kể cả tập quán lẫn theo công ước, định ra
và tiến hành áp dụng ở ngoài lãnh hải các biện pháp cân xứng với những thiệt
hại mà các quốc gia này đã thật sự phải chịu đựng hay bị đe dọa phải chịu nhằm
bảo vệ vùng duyên hải hay các lợi ích có liên quan của mình, kể cả việc đánh bắt
hải sản, chống nạn ô nhiễm hay đe dọa ô nhiễm do một tai nạn xảy ra trên biển
hoặc do những hành vi gắn liền với một tai nạn như vậy gây ra mà người ta có
căn cứ để chờ đợi những hậu quả tai hại.
Trong điều này, thì “tai nạn trên biển” có nghĩa là một vụ
đâm va, mắc cạn hay sự cố hàng hải khác hoặc sự kiện xảy ra ở trên hay ở một
con tàu gây ra những thiệt hại về vật chất hay đe dọa sắp gây ra những thiệt
hại về vật chất cho một chiếc tàu hay hàng hóa của nó.
Trong giới hạn của vùng trời thuộc chủ quyền của mình hay
đối với các tàu thuyền mang cờ của mình hoặc các tàu hay phương tiện bay được
mình cho đăng ký, các quốc gia bảo đảm việc áp dụng các luật, quy định mà mình
đã thông qua theo đúng điều 212, khoản 1, theo đúng các quy định khác của Công
ước, thông qua các luật và qui định, thi hành các biện pháp khác để phát huy hiệu
lực của các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường có nguồn gốc từ bầu khí quyển
hay xuyên qua bầu khí quyển, theo đúng tất cả các quy tắc và quy phạm quốc tế
tương ứng liên quan đến an toàn hàng không.
Khi có một vụ kiện do áp dụng phần này, các quốc gia thi
hành các biện pháp để tạo thuận lợi cho việc nghe nhân chứng và thu nhận các
chứng cứ do các nhà đương cục của một quốc gia khác hay do tổ chức quốc tế có
thẩm quyền cung cấp và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia các phiên tòa
của các đại biểu chính thức của tổ chức này, của quốc gia mà tàu mang cờ hay
của bất kỳ quốc gia nào bị ảnh hưởng bởi nạn ô nhiễm nảy sinh từ mọi vi phạm. Các
đại biểu chính thức tham gia các phiên tòa này có quyền và nghĩa vụ do luật
trong nước hay pháp luật quốc tế trù định.
Chỉ có những nhân viên chính thức có đủ tư cách, cũng như
các tàu chiến hay phương tiện bay quân sự hay các tàu thuyền hoặc các phương
tiện bay khác có mang những dấu hiệu bên ngoài chứng tỏ rõ ràng rằng chúng
thuộc một cơ quan nhà nước và được phép tiến hành công việc đó, có thể thi hành
các việc cảnh sát đối với các tàu thuyền nước ngoài theo phần này.
Khi thi hành quyền cảnh sát của mình đối với tàu thuyền nước
ngoài theo Công ước, các quốc gia không được gây ra nguy hiểm cho an toàn hàng
hải, không được gây ra một rủi ro nào cho một con tàu hay dẫn con tàu đó về một
cảng hoặc khu neo nguy hiểm, cũng không gây ra rủi ro quá đáng cho môi trường
biển.
a) Các quốc gia không được giữ một chiếc tàu nước ngoài lâu
quá mức cần thiết để tiến hành các cuộc điều tra đã được trù định ở các Điều
216, 218 và 220. Việc kiểm tra cụ thể một chiếc tàu nước ngoài phải được giới hạn
ở việc xem xét các chứng từ, sổ đăng ký hay các tài liệu khác mà chiếc tàu có
nhiệm vụ phải mang theo, theo các quy tắc và quy phạm quốc tế được chấp nhận
chung, hay mọi tài liệu tương tự; chỉ có thể tiến hành kiểm tra cụ thể chiếc
tàu tỉ mỉ hơn tiếp theo sau cuộc xem xét này và với điều duy nhất là:
Có các lý do xác đáng để cho rằng tình trạng con tàu hay
trang thiết bị của nó về cơ bản không phù hợp với những ghi chú ở trên các tài
liệu.
Nội dung của các tài liệu này không đủ để xác minh và thẩm
tra vụ vi phạm đã được suy đoán.
Con tàu không mang theo các chứng từ và tài liệu có giá trị.
b) Khi qua cuộc điều tra mà thấy rằng đã có sự vi phạm các
luật và qui định có thể áp dụng hay các quy tắc và quy phạm quốc tế nhằm bảo vệ
và gìn giữ môi trường biển, sau khi con tàu đã hoàn thành các thể thức hợp lý,
như việc ký gửi một khoản tiền bảo lãnh hoặc một khoản bảo đảm tài chính khác,
thì cần chấm dứt ngay việc cầm giữ.
c) Không làm phương hại đến các quy tắc và quy phạm quốc tế
có thể áp dụng về mặt khả năng đi biển của tàu thuyền, nếu việc chấm dứt cầm
giữ một con tàu sẽ có nguy cơ dẫn tới thiệt hại do khinh suất đối với môi
trường biển, thì con tàu nói trên có thể không được phép tiếp tục cuộc hành
trình, hoặc được phép nhưng với điều kiện là phải đi đến xưởng sửa chữa thích
hợp gần nhất. Trong trường hợp mà việc chấm dứt cầm giữ con tàu bị từ chối hay
bị đặt các điều kiện, thì quốc gia mà tàu mang cờ phải được thông báo ngay về
việc này và có thể yêu cầu chấm dứt việc cầm giữ này theo đúng phần XV.
2. Các quốc gia hợp tác để soạn thảo các thủ tục nhằm tránh
khỏi việc kiểm tra cụ thể thừa đối với tàu thuyền trên biển.
Khi thi hành các quyền và làm tròn các nghĩa vụ của mình
theo phần này, các quốc gia không được bắt các tàu thuyền của một quốc gia nào
khác phải chịu một sự phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế.
Khi một quốc gia tiến hành các cuộc truy tố nhằm trừng phạt
một vi phạm do một chiếc tàu nước ngoài gây ra ở bên ngoài lãnh hải của quốc
gia trên đối với các luật và quy định có thể áp dụng hay các quy tắc và qui
phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, thì
các cuộc truy tố này phải bị đình chỉ ngay sau khi quốc gia mà tàu mang cờ đã
tự mình tiến hành các cuộc truy tố đối với nội dung chính của vụ vi phạm nói
trên, trong vòng 6 tháng tiếp theo việc khởi tố đầu tiên, trừ khi việc khởi tố
này nhằm vào một trường hợp đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho quốc gia ven
biển, hay quốc gia mà tàu mang cờ nói trên đã nhiều lần không làm tròn nghĩa vụ
của mình để bảo đảm áp dụng thực sự các quy tắc và các quy phạm quốc tế hiện
hành đối với các vụ vi phạm do tàu thuyền của mình gây ra. Quốc gia mà tàu mang
cờ khi đã yêu cầu đình chỉ các cuộc truy tố theo đúng điều này trao lại trong
thời gian thích hợp cho quốc gia đầu tiên một hồ sơ đầy đủ về sự việc và các
văn bản gốc của vụ án. Khi các tòa án của quốc gia mà tàu mang cờ đã tuyên án
thì các cuộc truy tố phải chấm dứt sau khi đã thanh toán xong các chi phí về
thủ tục, thì bất kỳ khoản tiền bảo lãnh hay khoản bảo đảm tài chính nào khác
được ký gửi khi tiến hành các cuộc truy tố này đều phải được quốc gia ven biển
trả lại.
Không thể tiến hành các cuộc truy tố đối với tàu thuyền nước
ngoài sau thời hạn 3 năm kể từ ngày vi phạm, và không quốc gia nào có thể tiến
hành rồi, với điều kiện phải tuân thủ khoản 1.
Điều này không đụng chạm đến quyền của quốc gia mà tàu mang cờ
sử dụng mọi biện pháp, kể cả quyền tiến hành các cuộc truy tố, theo đúng luật
trong nước của mình, không phụ thuộc vào các cuộc truy tố do một quốc gia khác
tiến hành trước.
Không một quy định nào của Công ước đụng chạm đến quyền khởi
tố về trách nhiệm dân sự trong trường hợp xảy ra những thiệt hại hay tổn thất
do ô nhiễm môi trường biển.
Đối với trường hợp vi phạm các luật và quy định quốc gia hay
các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển do các tàu thuyền nước ngoài gây ra ở ngoài lãnh
hải thì chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền.
Đối với tình trạng vi phạm các luật và quy định quốc gia hay
các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển, do một tàu nước ngoài gây ra ở trong lãnh hải, thì
chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền, trừ trường hợp đó là một hành động cố ý
và gây ra ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong tiến trình các cuôc truy tố đã được tiến hành nhằm
trừng phạt các vụ vi phạm thuộc lọai này do một tàu nước ngoài phạm phải mà
chiếc tàu có thể phải chịu đụng những hình thức xử phạt, các quyền được thừa
nhận của bị cáo vẫn được tôn trọng.
Các quốc gia thông báo không chậm trễ cho các quốc gia mà
tàu mang cờ và cho mọi quốc gia hữu quan khác tất cả các biện pháp được sử dụng
với tàu thuyền nước ngoài trong việc áp dụng Mục 6, và giao cho quốc gia mà tàu
mang cờ tất cả các báo cáo chính thức có liên quan đến biện pháp này. Tuy
nhiên, trong trường hợp các vụ vi phạm xảy ra trong lãnh hải, quốc gia ven biển
chỉ thực hiện các nghĩa vụ này đối với các biện pháp đuợc dùng trong khuôn khổ
các cuộc truy tố. Các nhân viên ngọai giao hay các viên chức lãnh sự, và trong
trường hợp có thể được, nhà đương cục về biển của quốc gia mà tàu mang cờ được
thông báo ngay về mọi biện pháp thuộc loại này.
Các quốc gia chịu trách nhiệm về những thiệt hại và tổn thất
có thể qui cho họ do các biện pháp đã được sử dụng trong việc áp dụng Mục 6,
khi các biện pháp này là bất hợp pháp hay vượt quá mức cần thiết hợp lý, có xét
đến các thông tin sẵn có.
Không một quy định nào của Mục 5, 7 và 6 đụng chạm đến chế
độ pháp lý của các eo dùng cho hàng hải quốc tế. Tuy nhiên, nếu một chiếc tàu
nước ngoài không phải là các tàu thuyền đã nêu ở Mục 10 vi phạm các luật và quy
định đã nêu ở Điều 42 khoản 1, điểm a, và b, gây ra hay đe dọa gây ra các thiệt
hại nghiêm trọng cho môi trường biển của các eo biển, thì quốc gia có eo biển
có thể thi hành các biện pháp cảnh sát thích hợp, trong khi vẫn tôn trọng mutatis
mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) mục này.
Các quốc gia ven biển có quyền thông quan và tiến hành áp
dụng các luật và quy định không phân biệt đối xử nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền gây ra trong khu vực bị băng bao phủ và
nằm trong ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế, khi các điều kiện khí hậu
đặc biệt khắc nghiệt và việc các khu vực bao phủ phần lớn thời gian trong một
năm gây trở ngại cho hàng hải hoặc hoặc làm cho việc hàng hải trở nên đặc biệt
nguy hiểm, và nạn ô nhiễm môi trường biển có nguy cơ gây tác hại nghiêm trọng
đến sự cân bằng sinh thái hay làm rối lọan sự cân bằng này một cách không thể
hồi phục được. Các luật và quy định này phải lưu ý thích đáng đến hàng hải cũng
như đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trên cơ sở của các dữ kiện khoa
học chắc chắn nhất mà người ta có thể có được.
Các quốc gia có trách nhiệm quan tâm đến việc hoàn thành các
nghĩa vụ quốc tế của mình về vấn đề bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Các quốc
gia có trách nhiệm theo đúng luật quốc tế.
Quốc gia quan tâm làm sao cho luật trong nước của mình có
được những hình thức tố tụng cho phép thu được sự đền bù nhanh chóng và thích
đáng, hay sự bồi thường khác đối với những thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm môi
trường do tự nhiên nhân, hay pháp nhân thuộc quyền tài phán của mình gây ra.
Để bảo đảm một sự đền bù nhanh chóng và thích đáng mọi thiệt
hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia cần hợp tác để bảo đảm áp
dụng và phát triển luật quốc tế về trách nhiệm có liên quan đến việc đánh giá
và bồi thường các thiệt hại và việc giải quyết các tranh chấp về mặt này, cũng
như, nếu có thể, đến việc soạn thảo các tranh chấp và thủ tục để thanh toán tiền
bồi thường thích đáng, chẳng hạn trù định một khoản bảo hiểm bắt buộc các quỹ
bồi thường.
Các quy định của Công ước liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ
môi trường biển không áp dụng đối với các tàu chiến hay tàu thuyền bổ trợ, cũng
như đối với các tàu thuyền khác hay đối với các phương tiện bay thuộc một quốc
gia hay do quốc gia này, khai thác, khi trong thời gian xem xét, quốc gia này
chỉ sử dụng chúng vào những mục đích công vụ không có tính chất thương mại. Tuy
nhiên, mỗi quốc gia thi hành các biện pháp thích hợp không ảnh hưởng đến các
hoạt động hay khả năng hoạt động của tàu thuyền hay phương tiện bay thuộc mình
hay do mình khai thác, sao cho các tàu thuyền hay phương tiện bay này hành động
một cách thích hợp với Công ước trong chừng mực có thể làm được.
Phần này không ảnh hưởng đến các nghĩa vụ riêng thuộc bổn
phận của các quốc gia theo các công ước hay điều ước đặc thù được ký kết trước
đây về mặt bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, cũng không ảnh hưởng đến các điều
ước có thể được ký kết để áp dụng các nguyên tắc chung đã được nêu trong Công
ước.
Các quốc gia phải làm tròn các nghĩa vụ riêng thuộc phận sự
của mình có liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển theo Công ước
đặc biệt, một cách thích hợp với các nguyên tắc và mục tiêu chung của Công ước.
Tất cả các quốc gia, bất kể vị trí địa lý thế nào, cũng như
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu
khoa học biển, với điều kiện tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia
khác như đã đuợc quy định trong Công uớc.
Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền khuyến khích
và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai và chỉ đạo công tác nghiên cứu
khoa học biển theo đúng Công uớc.
Công tác nghiên cứu khoa học biển phải phục tùng các nguyên
tắc sau đây: Công tác này đuợc tiến hành nhằm vào những mục đích hoàn toàn hòa bình;
Công tác này đuợc tiến hành bằng cách dùng các phương pháp và
phương tiện khoa học thích hợp phù hợp với Công uớc;
Công tác này không cản trở một cách vô lý những việc sử dụng
biển hợp pháp khác phù hợp với Công uớc và nó phải đuợc quan tâm đến trong các
việc sử dụng này.
Công tác này đuợc tiến hành theo đúng mọi quy định tương ứng
đuợc thông qua để thi hành Cống uớc, kể cả các quy định nhằm bảo vệ và giữ gìn
môi truờng biển.
Công tác nghiên cứu khoa học biển không tạo ra co sở pháp lý
cho một yêu sách nào đối với một bộ phận nào đó của môi truờng biển hay của các
tài nguyên của nó.
Chấp hành nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán,
và trên cơ sở của nguyên tắc có đi có lại về lợi ích, các quốc gia và các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế về
mặt nghiên cứu khoa học biển vì mục đích hòa bình.
Trong bối cảnh này và không làm phương hại đến các quyền và
nghĩa vụ các quốc gia theo Công uớc, một quốc gia khi hành động theo phần này,
cần tùy theo tình hình mà dành cho các quốc gia khác các khả năng hợp lý để
nhận đuợc của mình hay với sự hợp tác của mình các thông tin cần thiết để ngăn
ngừa và chế ngự các tác hại đối với sức khỏe và đối với sự an toàn của con
nguời và môi truờng biển.
Các quốc gia, tổ chức quốc tế có thẩm quyền hợp tác với nhau
qua việc ký kết các hiệp định hai bên và nhiều bên để tạo ra các điều kiện
thuận lợi cho việc chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học biển trong môi truờng
biển và kết hợp những nỗ lực của các nhà nghiên cứu khoa học tiền hành nghiên
cứu bản chất của các hiện tuợng, các quá trình xảy ra trong môi truờng biển và
các tác động qua lại của chúng.
Bằng các con đuờng thích hợp và theo đúng Công uớc, các quốc
gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền công bố, phổ biến các thông tin liên quan
đến các chương trình chủ yếu đuợc dự tính và các mục tiêu của chúng, cũng như
những kiến thức đuợc rút ra từ công tác nghiên cứu khoa học biển.
Vì mục đích này, các quốc gia, tự mình hay hợp tác với các
quốc gia khác và với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tích cực tạo điều kiện
thuận lợi cho việc trao đổi các dữ kiện, thông tin khoa học và cho việc chuyển giao
các kiến thức rút ra từ công tác nghiên cứu khoa học biển, đặc biệt là cho các
quốc gia đang phát triển cũng như cho việc tăng cuờng khả năng của chính các
quốc gia này để tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học biển, nhất là bằng
các chuong trình giúp cho các nhân viên kỹ thuật và khoa học của họ đuợc huởng
một sự giáo dục và đào tạo thích hợp.
Trong việc thực hiện chủ quyền của mình, các quốc gia ven biển
có đặc quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học
biển ở trong lãnh hải chỉ đuợc tiến hành vợi sự thảo thuận rõ ràng của quốc gia
ven biển và trong các điều kiện do quốc gia này ấn định.
Trong việc thi hành quyền tài phán của mình, các quốc gia ven
biển có quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học
biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục địa của mình theo đúng
các quy định tương ứng của Công uớc.
Công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về
kinh tế và trên thềm lục địa đuợc tiến hành với sự thỏa thuận của quốc gia ven
biển.
Trong những truờng hợp bình thuờng, các quốc gia ven biển
thỏa thuận cho thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học biển mà các quốc gia
khác hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền dự định tiến hành trong vùng đặc
quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình theo đúng Công uớc, nhằm vào
những mục đích hoàn toàn hòa bình và để tăng thêm kiến thức khoa học về môi
truờng biển, vì lợi ích của toàn thể loài nguời. Vì mục đích này, các quốc gia
ven biển thông qua các quy tắc và thủ tục bảo đảm sẽ cho phép trong những thời
hạn hợp lý và sẽ không khuớc từ một cách phi lý.
Trong việc áp dụng khoản 3, các truờng hợp có thể đuợc coi
là bình thuờng ngay cả khi giữa quốc gia ven biển và quốc gia đề nghị thực hiện
công trình nghiên cứu không có quan hệ ngoại giao.
Tuy nhiên, quốc gia ven biển có thể tùy ý mình không cho
phép thực hiện một dự án nghiên cứu khoa học biển do một quốc gia khác hay một
tổ chức quốc tế có thẩm quyền đề nghị tiến hành ở vùng đặc quyền về kinh tế hay
trên thềm lục địa của mình trong các truờng hợp sau:
a. Nếu dự án có ảnh huởng trực tiếp đến việc thăm dò và Khai
thác các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật;
b. Nếu dự án có dự kiến công việc khoan trong thềm lục địa,
sử dụng chất nổ hay đưa chất độc hại vào trong môi truờng biển;
c. Nếu dự án dự kiến việc xây dựng, khai thác hay sử dụng
các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đã nêu ở các Điều 60 và 80;
d. Nếu những thông tin đuợc thông báo về tình chất và mục
tiêu của dự án theo Điều 248 không đúng, hoặc nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế
có thẩm quyền, tác giả của dự án không làm tròn những nghĩa vụ đã cam kết với
quốc gia ven biển hữu quan trong một dự án nghiên cứu truớc đây.
Mặc dầu khoản 5 đa quy định như thế, các quốc gia ven biển
cũng không thể thi hành quyền tùy ý khuớc từ theo điểm a của khoản này, đối với
các dự án nghiên cứu khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng phần này trên thềm
lục địa ở cách đuờng cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải quá 200 hải lý,
ngoài các khu vực đặc biệt mà bất kỳ lúc nào các quốc gia ven biển cung có thể
chính thức chỉ định làm nơi hoặc sẽ làm nơi để tiến hành công việc khai thác
hay thăm dò đi vào chi tiết trong một thời hạn hợp lý. Các quốc gia ven biển
thông báo trong những thời hạn hợp lý các khu vực mà mình chỉ định cũng như tất
cả những thay đổi có liên quan, nhung không có trách nhiệm cung cấp các chi
tiết về các công việc trên các khu vực này.
Khoản 6 đuợc áp dụng không phương hại đến các quyền ở thềm lục
địa đuợc thừa nhận cho các quốc gia ven biển ở Điều 77.
Các công tác nghiên cứu khoa học biển nói ở điều này không
đuợc gây trở ngại một cách phi lý cho các hoạt động do quốc gia ven biển tiến
hành trong việc thi hành quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán mà Công uớc đã
trù định.
Một quốc gia ven biển là hội viên của một tổ chức quốc tế, hay
bị ràng buộc với tổ chức quốc tế đó qua một hiệp định tay đôi và ở vùng đặc
quyền về kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó, tổ chức quốc tế nói trên
muốn trực tiếp tiến hành, hay cho tiến hành duới sự bảo trợ của mình một dự án
nghiên cứu khoa học biển, thì nếu như quốc gia đó đã chuẩn y dự án chi tiết khi
tổ chức quốc tế quyết định tiến hành dự án, hay là quốc gia đó đã sẵn sàng tham
gia dự án nghiên cứu khoa học biển và không có ý kiến phản đối nào sau thời
gian 4 tháng, kể từ khi tổ chức đó thông báo cho quốc gia về dự án nói trên,
thì quốc gia đó coi như đa cho phép thực hiện dự án đúng theo các quy định về
tiêu chuẩn kỹ thuật đã thỏa thuận.
Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền muốn tiền hành
các công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên
thềm lục địa của một quốc gia ven biển, phải cung cấp cho quốc gia này, chậm
nhất là không quá 6 tháng truớc thời gian dự kiến để bắt đầu dự án nghiên cứu
khoa học biển, một bản mô tả đầy đủ, chỉ rõ:
Tính chất và các mục tiêu của dự án
Phương pháp và các phương tiện sẽ đuợc sử dụng; có nói rõ tên,
trọng luợng, kiểu và loại tàu thuyền, và một bản mô tả các dụng cụ khoa học;
Các khu vực địa lý cụ thể mà dự án sẽ thực hiện;
Các thời hạn dự định cho chuyện đến đầu tiên và chuyện ra đi
cuối cùng của các tàu thuyền nghiên cứu, hay thời hạn dự định cho việc triển
khai và rút thiết bị, và thời hạn dự định cho việc thu hồi dụng cụ nghiên cứu, tùy
theo truờng hợp;
Tên cơ quan bảo trợ cho dự án nghiên cứu, tên của giám đốc
cơ quan này và của nguời chịu trách nhiệm dự án;
Mức độ mà quốc gia ven biển có thể tham gia vào dự án hay
đuợc cử đại diện
1. Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực hiện công
tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục
địa của một quốc gia ven biển, cần phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a. Bảo đảm cho quốc gia ven biển, nếu quốc gia này muốn,
quyền tham gia vào dự án nghiên cứu khoa học biển hay đặc biệt là khi có thể
đuợc, cử đại diện lên trên các tàu thuyền và các xuồng nghiên cứu khác hay lên
trên các thiết bị nghiên cứu khoa học, nhung không phải thanh toán một khoản
tiền thù lao nào cho những nhà nghiên cứu của quốc gia này, và quốc gia này
cũng không bị buộc phải đóng góp vào các kinh phí của dự án;
b. Một khi công việc nghiên cứu đã kết thúc, phải cung cấp
càng sớm càng tốt, theo yêu cầu của quốc gia ven biển, những báo cáo sơ bộ,
cũng như các kết quả và kết luận cuối cùng;
c. Cam kết cho quốc gia ven biển, theo yêu cầu của họ, tiếp
xúc với tất cả các mẫu vật và dữ kiện thu đuợc trong khuôn khổ của dự án nghiên
cứu khoa học biển, cũng như cam kết cung cấp cho quốc gia này những dữ kiện có
thể sao lại và các mẫu vật có thể đuợc phân chia mà không làm giảm giá trị khoa
học của chúng;
d. Cung cấp cho quốc gia ven biển, theo yêu cầu của họ, một
bản đánh giá về các dữ kiện, các mẫu vật và các kết quả nghiên cứu đó, hay giúp
đỡ cho quốc gia này tiến hành đánh giá hoặc giải thích chung;
e. Với điều kiện phải thực hiện quy định ở khoản 2, bảo đảm
cho các kết quả của công tác nghiên cứu đuợc sẵn sàng đưa ra sử dụng càng sớm
càng tốt trên truờng quốc tế qua các con đuờng quốc gia hay quốc tế thích hợp.
f. Thông báo ngay cho quốc gia ven biển bất kỳ sửa đổi quan
trọng nào đối với dự án nghiên cứu;
g. Một khi công tác nghiên cứu đã kết thúc, phải tháo gỡ các
thiết bị hay công cụ nghiên cứu khoa học, trừ khi có sự thỏa thuận khác.
2. Điều này đuợc áp dụng không làm phương hại đến các điều
kiện do các luật và quy định của quốc gia ven biển ấn định về việc thi hành
quyền tùy ý quyết định đồng ý hay không đồng ý theo Điều 246, khoản 5, kể cả
việc bắt buộc phải đuợc sự đồng ý truớc của nuớc đó mới đuợc phổ biến trên phạm
vi quốc tế các kết quả nghiên cứu thuộc một dự án có liên quan trực tiếp đến
việc thăm dò và khai thác các tài nguyên thiên nhiên.
Các thông tin liên lạc liên quan đến các dự án nghiên cứu
khoa học biển phải đuợc tiến hành qua các con đuờng chính thức thích hợp, trừ
khi có sự thỏa thuận khác.
Các quốc qia hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền có thể
thực hiện một dự án nghiên cứu khoa học sau một thời hạn 6 tháng kể từ ngày các
thông tin cần thiết theo Điều 248 đã đuợc thông báo cho quốc gia ven biển, trừ khi
trong một thời hạn 4 tháng kể từ lúc nhận đuợc các thông tin này, quốc gia ven
biển đã báo cho quốc gia hay tổ chức đề nghị thực hiện các công tác nghiên cứu
biết:
Quốc gia ven biển đã khuớc từ theo Điều 246; hay
Các thông tin do quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền
này cung cấp về tính chất hay mục tiêu của dự án không phù hợp với sự thực hiển
nhiên; hay
Quốc gia ven biển cần có một thông báo bổ sung về những
thông tin hoặc những điều kiện đã nêu ở các Điều 248 và 249; hay
Các nghĩa vụ nẩy sinh từ các điều kiện đã đuợc quy định ở
Điều 249 cho một dự án nghiên cứu khoa học biển do quốc gia hay tổ chức quốc tế
này thực hiện truớc đây đã không đuợc làm tròn.
1. Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu đinh chỉ các công việc
nghiên cứu khoa học biển đang tiến hành trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên
thềm lục địa của mình:
Nếu công việc này không đuợc tiến hành theo đúng các thông
tin đã đuợc thông báo theo Điều 248 mà quốc gia ven biển đã dựa vào để đồng ý
cho phép; hay
Nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi tiến hành
công việc này không tôn trọng các quy định của Điều 249 liên quan đến các quyền
của quốc gia ven biển đối với dự án nghiên cứu khoa học biển.
2. Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu chấm dứt mọi công việc
nghiên cứu khoa học biển trong tất cả các truờng hợp mà việc không tuân thủ
Điều 248 có nghĩa là làm thay đổi lớn dự án các công trình nghiên cứu.
3. Quốc gia ven biển cũng có thể yêu cầu chấm dứt các công
việc nghiên cứu khoa học biển, nếu như, trong một thời gian hợp lý, một điểm
bất kỳ trong những tình hình nêu ở khoản 1 không đuợc sửa chữa.
4. Sau khi nhận đuợc thông báo về quyết định của quốc gia
ven biển đòi đinh chỉ hay chấm dứt công việc nghiên cứu khoa học biển, các quốc
gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền đã đuợc phép tiến hành các công việc này
phải chấm dứt những công việc thuộc đối tuợng của thông báo.
5. Lệnh đinh chỉ đuợc đưa ra theo khoản 1 phải do quốc gia
ven biển thu hồi, và dự án khoa học nghiên cứu biển có thể đuợc tiếp tục ngay
khi quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực hiện các công tác nghiên
cứu khoa học biển này đã tuân theo các điều kiện quy định ở các Điều 248 và 249.
1. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi đã
trao cho một quốc gia ven biển một dự án nghiên cứu khoa học biển nêu ở Điều 246,
khoản 3, cần thông báo dự án này cho các quốc gia láng giềng không có biển và
các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi, và báo cho quốc gia ven
biển việc gửi các thông báo này.
2. Một khi quốc gia ven biển có liên quan đã chấp thuận dự
án, theo đúng điều 246 và các quy định thích hợp khác của Công uớc, các quốc
gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi thực hiện dự án cần cung cấp cho
các quốc gia láng giềng không có biển và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa
lý bất lợi các thông tin đã đuợc quy định rõ ở các Điều 248 và 249, khoản 1,
điểm f, theo yêu cầu của họ và tùy theo sự cần thiết.
3. Các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi về mặt
địa lý đã nói ở trên, theo yêu cầu của mình, có khả năng đuợc tham gia trong
chừng mực có thể vào dự án nghiên cứu khoa học hiển đã đuợc dự tính qua các
chuyên gia có trình độ do mình chỉ định và đuợc quốc gia ven biển chấp nhận,
theo những điều kiện mà quốc gia ven biển và quốc qia hay các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền tiến hành công tác nghiên cứu khoa học biển đã thảo luận để thực
hiện dự án, phù hợp với Công uớc.
4. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền đã nêu
ở khoản 1 cung cấp cho các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi về
mặt địa lý nói trên, theo yêu cầu của họ, những thông tin và sự giúp đỡ đã đuợc
quy định rõ ở Điều 249, khoản 1, điểm d, với điều kiẹn phải tuân thủ khoản 2
của chính điều này.
Các quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc, quy định và thủ
tục hợp lý nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa
học biển đuợc tiến hành theo đúng Công uớc ở ngoài lãnh hải, và nếu cần, thì
tạo điều kiện cho các tàu thuyền nghiên cứu khoa học biển chấp hành các quy
định thích hợp của phần này vào ra cảng của các quốc gia nói trên đuợc dễ dàng,
với điều kiện là phải tuân thủ theo các luật và quy định của các quốc gia này,
và phải khuyến khích sự giúp đỡ cho các tàu thuyền này.
Tất cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình như
thế nào, cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện
việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng, theo đúng phần XI.
Tất cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình như
thế nào, cũng nhu các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện
việc nghiên cứu khoa học biển theo đúng Công uớc trong phần nuớc nằm ngoài ranh
giới của vùng đặc quyền về kinh tế.
Việc đặt và sử dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa
học thuộc bất kỳ kiểu nào ở một vùng nào đó của môi truờng biển phải phụ thuộc
vào cùng các điều kiện như đã đuợc Công uớc trù định cho việc tiến hành nghiên
cứu khoa học biển ở trong khu vực kể trên.
Các thiết bị hay dụng cụ đuợc nêu trong mục này, không có
quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng, và sự có mặt của chúng
không có ảnh huởng đến vấn đề hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng độc quyền về
kinh tế hay thềm lục địa.
Các khu vực an toàn có một chiều rộng hợp lý không quá 500m
có thể đuợc lập ra xung quanh các thiết bị nghiên cứu khoa học, theo đúng các
quy định tuong ứng của Công uớc. Tất cả các quốc gia phải chú ý bảo đảm cho tàu
thuyền của mình tôn trọng các khu vực an toàn này.
Việc đặt và sử dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa
học thuộc bất kỳ kiểu nào không đuợc gây cản trở cho việc hàng hải theo các con
đuờng quốc tế thuờng dùng.
Các thiết bị hay dụng cụ đã nêu trong mục này phải có các
dấu hiệu nhận dạng chỉ rõ quốc gia đăng ký hay tổ chức quốc tế mà chúng phụ
thuộc vào, cũng như, phải có các phuong tiện báo hiệu thích hợp đã đuợc chấp
thuận trên truờng quốc tế nhằm bảo đảm an toàn hàng hải và hàng không, có tính đến
các quy tắc và quy phạm do các tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra.
Bổn phận của các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền là phải quan tâm, sao cho việc nghiên cứu khoa học biển, bất kể chúng do
hoặc nguời thay mặt cho họ thực hiện, đều đuợc tiến hành theo đúng Công uớc.
Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền chịu trách
nhiệm về những biện pháp mà mình thi hành, vi phạm Công uớc, liên quan đến các
công việc nghiên cứu khoa học biển do các quốc gia khác, các tự nhiên nhân hay pháp
nhân có quốc tịch của các quốc gia khác đó hoặc do các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền tiến hành, và phải đền bù các tồn thất do các biện pháp đó gây ra.
Các quốc gia và tổ chức có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm,
theo Điều 235, về các tổn thất gây ra bởi nạn ô nhiễm môi truờng biển xuất phát
từ việc nghiên cứu khoa học biển do mình thực hiện hay do nguời thay mặt cho mình
thực hiện.
Các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các
quy định của Công uớc về việc nghiên cứu khoa học biển đuợc giải quyết theo
đúng các Mục 2 và 3 của Phần XV
Chừng nào một tranh chấp chưa đuợc giải quyết theo đúng các
Mục 2 và 3 của Phần XV, thì quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền đuợc
phép thực hiện dự án nghiên cứu khoa học biển, không cho phép thực hiện hay tiếp
tục việc nghiên cứu khoa học nếu không có sự đồng ý rõ ràng của các quốc gia
ven biển hữu quan.
1. Các quốc gia hợp tác trực tiếp, hoặc thông qua các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền, trong phạm vi khả năng của mình, nhằm tích cực tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và chuyển giao khoa học và kỹ thuật biển
theo các thể thức và điều kiện công bằng và hợp lý.
2. Các quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
khả năng trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật biển của các quốc gia có nhu cầu
và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ về kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất là
các quốc gia đang phát triển, kể cả quốc gia không có biển hay bất lợi về mặt
địa lý, trong việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý các tài nguyên của
biển, trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, trong việc nghiên cứu khoa
học biển và các hoạt động khác nhằm tiến hành trong môi trường biển phù hợp với
Công ước, nhằm thúc đẩy tiển bộ xã hội và kinh tế của các quốc gia đang phát
triển.
3. Các quốc gia cố gắng giúp tạo ra các điều kiện kinh tế và
pháp lý thuận lợi cho việc chuyển giao kỹ thuật biển, trên cơ sở công bằng, có
lợi cho tất cả các bên hữu quan.
Để tạo điều kiện cho sự hợp tác theo Điều 266, các quốc gia
cần phải tính đến tất cả các lợi ích chính đáng, cũng như các quyền và nghĩa vụ
của người nắm giữ, những người cung cấp và những người được nhận các kỹ thuật
biển.
Các quốc gia trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền, cần phải xúc tiến:
Việc nắm, đánh giá và phổ biến các kiến thức trong lĩnh vực kỹ
thuật biển; các quốc gia này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc với các
thông tin và các dữ liệu tương ứng;
Việc phát triển các kỹ thuật biển thích hợp;
Việc phát triển hạ tầng cơ sở về kỹ thuật cần thiết để làm
dễ dàng cho việc chuyển giao các kỹ thuật biển;
Việc khai thác nguồn nhân lực qua việc đào tạo và giảng dạy cho
các công dân của các quốc gia và các nước đang phát triển, đặc biệt là những
nước kém phát triển nhất trong các quốc gia đang phát triển đó;
Việc hợp tác quốc tế ở mọi mức độ, nhất là việc hợp tác theo
khu vực, phân khu vực và tay đôi.
Để đạt đến các mục tiêu cơ bản đã nêu ở Điều 268, ngoài các
biện pháp khác, các quốc gia tìm cách, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền, để:
Lập ra các chương trình hợp tác kỹ thuật nhằm chuyển giao
thực sự các kỹ thuật biển thuộc đủ mọi loại cho các quốc gia có nhu cầu và yêu
cầu hưởng một sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật biển trong lĩnh vực này, nhất là cho
các quốc gia đang phát triển không có biển hay bất lợi về địa lý, cũng như cho
các quốc gia đang phát triển khác không có khả năng hoặc để tạo ra hoặc để phát
triển khả năng kỹ thuận riêng của mình trong lĩnh vực khoa học biển và trong
lĩnh vực thăm dò và khai thác các tài nguyên của biển, cũng không có khả năng phát
triển hạ tầng cơ sở cần thiết cho các kỹ thuật này;
Giúp tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc ký kết các hiệp
định, các hợp đồng hay các thỏa thuận tương tự khác, trong những điều kiện công
bằng, hợp lý;
Tổ chức các hội nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận về các
vấn đề khoa học và kỹ thuật, nhất là về các chính sách và phương pháp cần đề ra
để thực hiện chuyển giao các kỹ thuật biển;
Tạo điều khiện thuận lợi cho việc trao đổi các nhà khoa học,
kỹ thuật và các chuyên gia khác;
Thực hiện các dự án và xúc tiến các xí nghiệp liên doanh và
các hình thức hợp tác hai bên và nhiều bên khác.
Việc hợp tác quốc tế để phát triển và chuyển giao kỹ thuật
biển được thực hiện, khi có thể được và thích hợp, trong khuôn khổ của các
chương trình hai bên, khu vực, và nhiều bên hiện có, cũng như trong khuôn khổ
của các chương trình được mở rộng và của các chương trình mới, nhằm làm dễ dàng
cho việc nghiên cứu khoa học biển và chuyển giao kỹ thuật biển, đặc biệt, trong
các lĩnh vực mới, và việc cấp kinh phí quốc tế thích hợp cho việc nghiên cứu
đại dương và khai thác các đại dương.
Các quốc gia, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền, tìm cách xúc tiến việc soạn thảo các nguyên tắc chỉ đạo, các
tiêu chuẩn và qui phạm được chấp nhận chung về việc chuyển giao kỹ thuật biền
trong khuôn khổ của các thỏa hiệp hai bên hay trong khuôn khổ của các tổ chức
quốc tế và cơ quan khác, đặc biệt, có tính đến các lợi ích và nhu cầu của quốc
gia đang phát triển.
Trong lĩnh vực chuyển giao kỹ thuật biển, các quốc gia cố
gắng bảo đảm cho các tổ chức quốc tế có thâtm quyền phối hợp với các hoạt động
của họ, kể cả mọi chương trình khu vực và thế giới, có tính đến các lợi ích và
nhu cầu của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia không có
biển hay bất lợi về mặt địa lý.
Các quốc gia tích cực hợp tác với các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền và với Cơ quan quyền lực nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận
lợi cho việc chuyển giao cho các quốc gia đang phát triển, cho công dân của họ
và cho xí nghiệp những kiến thức thực tiễn và kỹ thuật biển có liên quan đến
các hoạt động trong Vùng.
Về các hoạt động tiến hành trong Vùng, Cơ quan quyền lực
quan tâm tới mọi lợi ích chính đáng cũng như các quyền và nghĩa vụ của những
người nắm giữ, những người cung cấp và những người được nhận kỹ thuật, đảm bảo
cho:
Theo đúng nguyên tắc phân chia công bằng về mặt địa lý, các
công dân của các quốc gia đang phát triền, dù là quốc gia ven biển, không có biển
hay có hoàn cảnh địa lý bất lợi, được đưa vào làm nhân viên tập sự trong số các
nhân viên kỹ thuật, quản lý và nghiên cứu được tuyển cho các nhu cầu hoạt động
của Cơ quan quyền lực;
Tài liệu kỹ thuật về dụng cụ, máy móc thiết bị và phương
pháp đã dùng phải để cho tất cả các quốc gia sử dụng, nhất là cho các quốc gia
đang phát triển đang có nhu cầu và yêu cầu được hưởng sự giúp đỡ kỹ thuật trong
lĩnh vực này;
Các quy định thích hợp phải được xác định ngay trong Cơ quan
quyền lực để tạo điều kiện dễ dàng cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được
hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực kỹ thuật biển, nhất là các quốc
gia đang phát triển, và công dân của các nước này, nắm được các kiến thức và có
trình độ thành thạo cần thiết, kể cả việc được hưởng một sự đào luyện về nghề
nghiệp.
Các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ
kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất là các quốc gia đang phát triển, nhận được một
sự giúp đỡ để có được trang thiết bị, các phương pháp, dụng cụ và bí quyết kỹ thuật
cần thiết, trong khuôn khổ của các thỏa thuận tài chính trù định trong Công
ước.
1. Các quốc gia, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền và Cơ quan quyền lực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập,
nhất là trong các quốc gia ven biển đang phát triển, các trung tâm quốc gia
nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển, và tăng cường các trung tâm hiện có, để
động viên và xúc tiến việc nghiên cứu khoa học biển trong các quốc gia này và
để phát triển khả năng riêng của từng nước nhằm sử dụng và gìn giữ các tài
nguyên biển của họ cho mục đích kinh tế.
2. Các quốc gia, thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền
và Cơ quan quyền lực, góp phần giúp đỡ thích đáng để tạo điều kiện dễ dàng cho
việc thành lập và tăng cường các trung tâm quốc gia nhằm làm cho các quốc gia có
nhu cầu và yêu cầu được hưởng sự giúp đỡ như vậy có được những phương tiện đào
tạo tiên tiến, những thiết bị, những kiến thức thực tiễn và sự thông thạo cần
thiết, cũng như các chuyên gia kỹ thuật.
1. Phối hợp với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, Cơ quan
quyền lực và các viện nghiên cứu quốc gia về khoa học và kỹ thuật biển, các
quốc gia tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập, nhất là trong các quốc gia
đang phát triển, các trung tâm nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển của khu vực,
nhằm khuyến khích và thúc đẩy việc nghiên cứu khoa học biển trong các quốc gia
này và để làm dễ dàng cho việc chuyển giao kỹ thuật biển.
2. Tất cả các quốc gia của cùng một khu vực cần tập hợp tác
với các trung tâm của khu vực để bảo đảm tốt hơn việc thực hiện các mục tiêu
của họ.
Ngoài các chức năng khác, các trung tâm khu vực có trách
nhiệm bảo đảm: Các chương trình đào tạo và giảng dạy ở mọi trình độ trong các
lĩnh vực nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển khác nhau, đặc biệt là môn sinh vật
biển, đề cập trước hết là việc bảo về và quản lý các tài nguyên sinh vật, môn
hải dương học, thủy văn học, kỹ thuật công trình, thăm dò địa chất đáy biển,
khai thác mỏ và kỹ thuật khử mặn nước biển; Việc nghiên cứu công tác quản lý;
Các chương trình nghiên cứu có quan hệ đến việc bảo vệ và
gìn giữ môi trường biển và việc ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm;
Việc tổ chức các hội nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận
thuộc khu vực;
Thu thập và xử lý dữ kiện và thông tin trong lĩnh vực khoa học
và kỹ thuật biển;
Phổ biến nhanh chóng các kết quả của việc nghiên cứu khoa học
và kỹ thuật biển trong các tài liệu dễ phổ cập;
Phổ biến các thông tin về các chính sách quốc gia liên quan đến
việc chuyển giao kỹ thuật biển, và việc nghiên cứu so sánh có hệ thống các
chính sách này;
Sưu tập và hệ thống hóa các thông tin liên quan đến việc
thương mại hóa các kỹ thuật, cũng như đến các hợp đồng và các thỏa thuận khác
về các chứng chỉ;
Hợp tác kỹ thuật với các quốc gia khác của khu vực.
Các tổ chức quốc tế có thẩm quyền nói trong phần này và Phần
XIII thi hành mọi biện pháp cần thiết để trực tiếp hay bằng cách hợp tác chặt
chẽ, làm tròn các chức năng và nhiệm vụ mà mình đảm đương theo phần này.
Các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp xảy ra
giữa họ về việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng các phương pháp hòa bình
theo đúng Điều 2, khoản 3 của Hiến chương liên hợp quốc và, vì mục đích này,
cần phải tìm ra giải pháp bằng các phương pháp đã được nêu ở Điều 33, khoản 1
của Hiến chương.
Không một quy định nào của phần này ảnh hưởng đến quyền của
các quốc gia thành viên đi đến thỏa thuận giải quyết vào bất cứ lúc nào, bằng
bất kỳ phương pháp hòa bình nào theo sự lựa chọn của mình một vụ tranh chấp xảy
ra giữa họ và vấn đề giải thích hay áp dụng Công ước.
1. Khi các quốc gia thành viên tham gia và một vụ tranh chấp
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã thỏa thuận tìm cách giải quyết
tranh chấp này bằng một phương pháp hòa bình theo sự lựa chọn của mình, thì
các thủ tục được trù định trong phần này chỉ được áp dụng nếu người ta không
đạt được một cách giải quyết bằng phương pháp này và nếu sự thỏa thuận giữa các
bên không loại trừ khả năng tiến hành một thủ tục khác.
2. Nếu các bên cùng thỏa thuận về một thời hạn, thì khoản
một chỉ được áp dụng kể từ khi kết thúc thời hạn này.
Khi các quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, trong khuôn khổ của một
hiệp định chung, khu vực hay hai bên hay bất kỳ cách nào, đã thỏa thuận rằng
một vụ tranh chấp như vậy, sẽ phải tuân theo một thủ tục dẫn đến một quyết định
bắt buộc, thì thủ tục này được áp dụng thay cho các thủ tục đã được trù định
trong phần này, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác.
1. Khi có tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành viên
liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, các bên tranh chấp tiến
hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải quyết tranh chấp bằng thương
lượng hay bằng các phương pháp hòa bình khác.
2. Cũng như vậy, các bên tiến hành ngay một cuộc trao đổi
quan điểm mỗi khi kết thúc một thủ tục giải quyết đối với một vụ tranh chấp như
vậy mà không giải quyết được, hay mỗi khi đã có một giải pháp và các hoàn cảnh
đòi hỏi các cuộc tham khảo ý kiến liên quan đến việc thi hành giải pháp đó.
1. Bất kỳ quốc gia nào thành viên nào tham gia vào một vụ
tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đều có thể yêu
cầu quốc gia khác hay các bên khác đưa vụ tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục
đã được trù định ở Mục 1 của Phụ lục V, hay theo một thủ tục hòa giải khác.
2. Khi yêu cầu đã được chấp nhận và nếu các bên đồng ý về
thủ tục hòa giải sẽ được áp dụng, thì bất kỳ bên nào cũng có thể đưa ra vụ
tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục đó.
3. Khi yêu cầu không được chấp nhận hay nếu các bên không
thỏa thuận được về thủ tục hòa giải, thì coi như đã chấm dứt việc hòa giải.
4. Khi một vụ tranh chấp đã được đưa ra hòa giải, thì chỉ
kết thúc việc hòa giải theo đúng thủ tục hòa giải đã thỏa thuận, trừ khi các
bên có sự thỏa thuận khác.
Mục này được áp dụng cho bất kỳ vụ tranh chấp nào mà theo
Mục 5 của Phần XI cần được giải quyết theo đúng các thủ tục đã trù định trong
phần này. Nếu một thực thế không phải là một quốc gia thành viên tham gia vào
một vụ tranh chấp như thế, thì mục này được áp dụng mutalis mutandis (với những
sửa đổi cần thiết về chi tiết).
Với điều kiện tuân thủ Mục 3, mọi tranh chấp liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước khi không được giải quyết bằng cách áp
dụng Mục 1, theo yêu cầu của một bên tranh chấp, đều được đưa ra trước tòa án
có thẩm quyền theo mục này.
1. Khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước, hay
ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn, hình
thức tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các
tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước:
Tòa án quốc tế về Luật biển được thành lập theo đúng Phụ lục
VII; Toà án quốc tế;
Một tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII;
Một tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục
VIII để giải quyết một hay nhiều loại tranh chấp đã được qui định rõ trong đó.
2. Một bản tuyên bố theo khoản 1 không ảnh hưởng đến nghĩa
vụ của một quốc gia thành viên phải chấp nhận, trong phạm vi và theo các thể thức
được trù định ở Mục 5 của phần XI, thẩm quyền của Viện giải quyết các tranh
chấp có liên quan đến đáy biển thuộc Toàn án quốc tế về luật biển và tuyên bố
đó cũng không bị nghĩa vụ này tác động đến.
3. Một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà
không được một tuyên bố còn có hiệu lực bảo vệ, thì được xem là đã chấp nhận
thủ tục trọng tài đã trù định ở Phụ lục VII.
4. Nếu các bên tranh chấp đã chấp nhận cùng một thủ tục để giải
quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo
thủ tục đó, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
5. Nếu các bên tranh chấp không chấp nhận cùng một thủ tục
để giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải
quyết theo thủ tục trọng tài đã được trù định ở Phụ lục VII, trừ khi các bên có
thỏa thuận khác.
6. Một bản tuyên bố theo đúng khoản 1 vẫn còn hiệu lực trong
vòng 3 tháng sau khi đã gửi một thông báo hủy bỏ cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
7. Một tuyên bố mới, một thông báo hủy nbỏ hay việc một
tuyên bố hết hạn không hề ảnh hưởng đến thủ tục đang tiến hành trước một toàn
án có thẩm quyền theo điều này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
8. Các tuyên bố và thông báo đã nêu ở điều này được gửi đến
Tổng thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển và Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển các
bản sao cho các quốc gia thành viên.
1. Một tòa án đã nêu ở Điều 287 có thẩm quyền xét xử bất kỳ
tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã được đưa
ra cho mình theo đúng phần này.
2. Một tòa án nói ở Điều 287 cũng có thẩm quyền xét xử bất
kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế
có liên quan đến các mục đích của Công ước và đã được đưa ra cho mình theo đúng
điều ước này.
3. Viện giải quyết tranh chấp liên quan đến đáy biển được lập
nên theo đúng phụ lục VI và bất kỳ viện nào khác, hay tòa trọng tài nào khác,
đã nêu ở Mục 5 của Phần XI, đều có thẩm quyền xét xử mọi vấn đề đã được đưa ra
cho mình theo đúng mục đó.
4. Trong trường hợp có sự tranh cãi về vấn đề một tòa án có
thẩm quyền hay không, thì vấn đề này do tòa án đó quyết định.
Đối với mọi tranh chấp đụng chạm đến những vấn đề khoa học hay
kỹ thuật, một tòa án khi thi hành thẩm quyền của mình theo mục này, theo yêu
cầu của một bên hay tự ý mình, và qua tham khảo ý kiến các bên, có thể lựa chọn
trên một bản danh sách thích hợp được lập nên theo đúng Điều 2 của phụ lục
VIII, ít nhất là 2 chuyên viên khoa học hay kỹ thuật tham gia tòa án nhưng
không có quyền biểu quyết.
1. Nếu một tòa án được đề nghị xét một vụ tranh chấp theo
đúng thủ tục và thấy prima facie (hiển nhiên) là mình có thẩm quyền theo phần này
hay Mục 5 của phần XI, thì tòa án này có thế qui định tất cả các biện pháp bảo
đảm mà mình xét thấy thích hợp với tình hình để bảo vệ các quyền riêng của từng
bên tranh chấp hay để ngăn không cho môi trường của biển bị những tổn thất
nghiêm trọng, trong khi chờ quyết định cuối cùng.
2. Các biện pháp bảo đảm có thể bị sửa đổi hay hủy bỏ ngay
khi các hoàn cảnh chứng minh cho các biện pháp đó thay đổi hay không còn tồn
tại.
3. Các biện pháp bảo đảm chỉ có thể được qui định, sửa đổi
hay hủy bỏ theo điều này, theo yêu cầu của một bên tranh chấp và sau khi đã tạo
cho các bên tranh chấp khả năng thỏa thuận được với nhau.
4. Toà án thông báo ngay mọi biện pháp bảo đảm hay mọi quyết
định sửa bỏ hay hủy bỏ biện pháp đó cho các bên tranh chấp, và nếu xét thấy
thích hợp, thì thông báo cho các quốc gia thành viên khác.
5. Trong khi chờ lập ra một tòa trọng tài xét xử một vụ
tranh chấp theo mục này, mọi tòa án do các bên thỏa thuận với nhau chỉ định,
hoặc, nếu không thỏa thuận được trong một thời hạn 2 tuần sau ngày có yêu cầu
các biện pháp bảo đảm. Toà án quốc tế về luật biển, hay trong trường hợp của
các hoạt động tiến hành trong Vùng, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan
đến đáy biển, có thể quy định, sửa đổi hay hủy bỏ các biện pháp bảo đảm theo
đúng điều này, nếu như họ thấy prima facie (hiển nhiên) rằng tòa án cần được
lập ra sẽ có thẩm quyền, và nếu như họ xét thấy rằng tính chất khẩn trương của
tình hình đòi hỏi phải làm như vậy. Một khi được thành lập, tòa án được giao
xét xử vụ tranh chấp, hành động theo đúng các khoản 1 đến 4, có thể sửa đổi,
hủy bỏ hay xác nhận biện pháp bảo đảm này.
6. Các bên tranh chấp phải tuân theo không chậm trễ các biện
pháp bảo đảm được quy định theo điều này.
1. Tất cả các thủ tục giải quyết tranh chấp được trù định
trong phần này đều để ngỏ cho các quốc gia thành viên.
2. Các thủ tục để giải quyết tranh chấp được trù định trong
phần này chỉ để ngo cho các thực thể không phải là quốc gia thành viên trong
phạm vi mà Công ước đã trù định một cách rõ ràng.
1. Khi các nhà chức trách của một quốc gia thành viên đã bắt
giữ một chiếc tàu mang cờ của một quốc gia thành viên khác và nếu thấy rằng
quốc gia bắt giữ chiếc tàu đã không tuân theo các qui định của Công ước trù
định việc giải phóng ngay cho tàu thuyền hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó
ngay khi ký gởi một khoản tiền bảo lãnh hợp lý hay một khoản bảo đảm tài chính
nào khác, thì vấn đề giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ phải được
đưa ra trước một tóa án do các bên chỉ định theo một thỏa thuận chung; nếu
không thỏa thuận đuợc trong một thời hạn 10 ngày kể từ lúc bắt giữ chiếc tàu
hay đoàn thủy thủ, vấn đề này có thể được đưa ra trước một tòa án được quốc gia
đã tiến hành bắt hay giữ tàu hay đoàn thủy thủ chấp nhận theo đúng Điều 287,
hay trước Tòa án quốc tế về luật biển, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
2. Yêu cầu giải phóng hay trả tự do chỉ có thể do quốc gia
mà tàu mang cờ hoặc nhân danh quốc gia ấy đưa ra.
3. Tòa án nhanh chóng xem xét yêu cầu này và chỉ xét xử vấn
đề giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ, việc này không có ảnh hưởng
gì đến tiến trình tiếp sau của mọi vụ kiện mà chiếc tàu, người chủ chiếc tàu
hay đoàn thủy thủ của nó có thể là đối tượng trước quyền tài phán quốc gia
thích hợp. Các nhà chức trách của quốc gia đã tiến hành bắt, giữ vẫn có đủ tư
cách ra lệnh giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó vào bất kỳ
lúc nào.
4. Ngay khi đã ký gửi khoản tiền bảo lãnh hay một khoản bảo
đảm tài chính khác theo quyết định của tòa án, các nhà chức trách của quốc gia
đã bắt giữ tàu phải tuân theo quyết định của tòa án về việc giải phóng tàu và
trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó.
1. Tòa án có thẩm quyền theo mục này áp dụng các qui định
của Công ước và các qui tắc khác của pháp luật quốc tế không mâu thuẫn với Công
ước.
2. Khoản 1 không đụng chạm đến quyền hạn của tòa có thẩm
quyền theo mục này để xét xử ex aequo bono (công bằng) nếu các bên thỏa thuận.
1. Tòa án được trù định ở Điều 287 nhận được đơn yêu cầu xét
xử một vụ tranh chấp nói ở Điều 297 quyết định theo thỉnh cầu của một bên, hay
có thể quyết định theo ý mình, xem yêu cầu này có phải là một sự lạm dụng các
phương pháp tố tụng hay prima facie (hiển hiên) là có căn cứ. Nếu tòa án xét
thấy rằng, đó là một sự lạm dụng các phương pháp tố tụng hay prima facie (hiển
hiên) là không có căn cứ, thì tòa án thôi không xét đơn nữa.
2. Lúc nhận được đơn, tòa án thông báo ngay cho bên kia hay
các bên kia, và qui định một thời hạn hợp lý, để các bên này có thể yêu cầu tòa
quyết định về các điểm đã nêu ở khoản 1.
3. Điều này không hề đụng chạm đến các quyền của một bên tranh
chấp nêu lên những phản bác sơ bộ theo đúng các qui tắc tố tụng có thể áp dụng.
Một vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước, chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo
các thủ tụ đã qui định ở mục này sau khi các biện pháp tố tụng nội bộ đã được
sử dụng hết theo đòi hỏi của pháp luật quốc tế.
1. Các quyết định do tòa án có thẩm quyền theo mục này đưa
ra là có tính chất tối hậu, và tất cả các bên tranh chấp phải tuân theo.
2. Các quyết định đó chỉ có tính chất bắt buộc đối với các bên
và trong trường hợp riêng biệt được xem xét.
1. Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán của
quốc gia ven biển như đã được trù định trong Công ước, được xét theo các thủ tục
giải quyết đã được trù định ở Mục 2 trong các trường hợp sau đây:
Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo Công ước
liên quan đến tự do và quyền hàng hải, hàng không hoặc tự do và quyền đặt các
dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến việc sử dụng biển vào các mục đích khác
mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều 58;
Khi thấy rằng trong việc thi hành các tự do và các quyền đó
hoặc trong việc sử dụng các quyền này, một quốc gia đã không tuân theo Công ước
hay các luật hoặc các qui định do quốc gia ven biển đề ra phù hợp với các qui
định của Công ước và các qui tắc khác của pháp luật quốc tế không trái với Công
ước; hoặc
Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo các qui
tắc hay quy phạm quốc tế đã được xác định nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển có thể áp dụng cho quốc gia này và đã được Công ước đặt ra, hay được đặt
ra thông qua một tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay một hội nghị ngoại giao hành
động phù hợp với Công ước.
2. a) Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng các qui định của Công ước về nghiên cứu khoa học biển được giải quyết theo
đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp nhận theo cách giải quyết
như thế đối với một vụ tranh chấp phát sinh từ:
Việc quốc gia này thi hành một quyền tùy ý quyết định theo
đúng Điều 246; hay
Quyết định của quốc gia này ra lệnh đình chỉ hoặc chấm dứt
tiến hành một dự án nghiên cứu theo đúng Điều 253;
b) Các vụ tranh chấp phát sinh từ một luận cứ của quốc gia
nghiên cứu cho rằng trong trường hợp của một dự án riêng biệt, quốc gia ven biển
không sử dụng các quyền mà các Điều 246 và 253 đã dành cho mình một cách phù hợp
với Công ước, thì theo yêu cầu của bên này hay bên khác được đưa ra hòa giải
theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của Phụ lục V, dĩ nhiên là Ủy ban hòa
giải không được xét việc thi hành quyền tùy ý quyết định của quốc gia ven biển
trong việc chỉ định các khu vực đặc biệt, như đã được trù định ở Điều 246, khoản
6, cũng như việc thi hành quyền tùy ý không cho phép theo đúng khoản 5 của cùng
điều đó.
3. a) Các việc tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay
áp dụng các qui định của Công ước về việc đánh bắt hải sản được giải quyết theo
đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp nhận cách giải quyết như
vậy về một vụ tranh chấp liên quan đến các quyền thuộc chủ quyền của mình đối
với các tài nguyên sinh vật thuộc Vùng đặc quyền về kinh tế của mình, hay liên
quan đến việc thi hành các quyền này, kể cả quyền tùy ý qui định khối lượng
đánh bắt có thể chấp nhận được và khả năng đánh bắt của mình, phân phối số dư
ra giữa các quốc gia khác, quyết định các thể thức, điều kiện đặt ra trong các
luật và qui định của mình về bảo vệ và quản lý;
b) Nếu việc vận dụng Mục 1, không cho phép đi đến một cách
giải quyết, thể theo yêu cầu của một bên nào đó trong số các bên tranh chấp, vụ
tranh chấp được đưa ra hòa giải theo thủ tục được trù định ở Mục 2 của Phụ lục V,
khi chứng minh được rằng quốc gia ven biển đã:
Rõ ràng không thực hiện nghĩa vụ phải dùng các biện pháp bảo
vệ và quản lý thích hợp để bảo đảm rằng việc duy trì các tài nguyên sinh vật
thuộc vùng đặc quyền kinh tế không bị ảnh hưởng nghiêm trọng;
Độc đoán từ chối việc quy định, theo yêu cầu của một quốc
gia khác khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được và khả năng khai thác tài
nguyên sinh vật của mình đối với các đàn (stocks) hải sản mà việc khai thác có
liên quan đến quốc gia khác đó; hay
Độc đoán từ chối việc chia cho một quốc gia nào đó toàn bộ
hay một phần số cá dư mà mình đã xác nhận, như đã trù định ở các Điều 62, 69 và
70 và theo các thể thức và điều kiện mà bản thân mình đã qui định và phù hợp
với Công ước;
Ủy ban hòa giải không có trường hợp nào được phép dùng quyền
túy ý quyết định của mình thay cho quyền tùy ý quyết định của các quốc gia ven
biển.
Báo cáo của Ủy ban hòa giải phải được thông báo cho các tổ
chức quốc tế thích hợp.
Khi đàm phán về các thỏa thuận đã trù định ở các Điều 69 và
70, các quốc gia thành viên, trừ khi có thỏa thuận khác, ghi vào đó một điều
khoản trù định các biện pháp mà mình phải thi hành để giảm đến mức tối thiểu
các khả năng bất đồng về việc giải thích hay áp dụng thỏa thuận, cũng như thủ
tục phải tuân theo trong trường hợp vẫn có bất đồng.
1. Khi ký kết, phê chuẩn hay tham gia Công ước, hoặc ở vào
bất kỳ thời điểm nào sau đó, với điều kiện không phương hại đến các nghĩa vụ
phát sinh từ Mục 1, một quốc gia có thể tuyên bố bằng văn bản rằng mình không
chấp nhận một hay nhiều thủ tục giải quyết các tranh chấp đã được trù định ở
Mục 2 có liên quan đến một hay nhiều loại tranh chấp sau đây:
a) i. Các vụ tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các
Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển hay các
vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử, nghĩa là khi một tranh chấp
như thế xảy ra sau khi Công ước có hiệu lực và nếu các bên không đi đến một
thỏa thuận nào bằng con đường thương lượng trong một thời hạn hợp lý, thì quốc
gia đã tuyên bố, theo yêu cầu của một trong các bên, chấp nhận đưa vụ tranh
chấp đó ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của phụ lục V, và
đương nhiên không thể đưa ra xét theo thủ tục này một vụ tranh chấp nào đòi hỏi
nhất thiết phải xem xét đồng thời một vụ tranh chấp chưa được giải quyết liên
quan đến chủ quyền và các quyền khác trên một lãnh thổ đất liền hay đảo;
ii. Một khi Ủy ban hòa giải đã trình bày báo cáo của mình,
báo cáo phải nói rõ được lý do, thì các bên thương lượng về một thỏa thuận trên
cơ sở của báo cáo này; nếu các cuộc thương lượng không thành, thì các bên, qua
sự thỏa thuận với nhau, đưa vấn đề ra theo các thủ tục đã được quy định ở Mục
2, trừ khi các bên có thỏa thuận khác;
iii. Điểm nhỏ này không áp dụng đối với các vụ tranh chấp
liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển đã được một thỏa thuận
giữa các bên giải quyết dứt khoát, cũng như đối với các vụ tranh chấp phải được
giải quyết theo đúng một bạn thỏa thuận hai bên hay nhiều bên có tính chất ràng
buộc các bên;
b) Các vụ tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, kể
cả hoạt động quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay của Nhà nước được sử dụng
cho một dịch vụ không có tính chất thương mại, và các vụ tranh chấp liên quan
đến các hành động bắt buộc chấp hành, đã được thực hiện trong việc thi hành các
quyền thuộc chủ quyền hoặc quyền tài phán mà Điều 297, khoản 2 và 3, đã loại
trừ khỏi thẩm quyền của một Tòa án;
c) Các vụ tranh chấp mà Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, trong
khi thi hành các chức năng của mình do Hiến chương Liên hợp quốc giao phó có trách
nhiệm giải quyết, trừ khi Hội đồng bảo an quyết định xóa vấn đề trong chương
trình nghị sự của mình hay yêu cầu các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp của
họ bằng các phương pháp đã qui định trong Công ước.
2. Một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1,
thì bất kỳ lúc nào cũng có thể rút lui tuyên bố đó hay thỏa thuận đưa ra một vụ
tranh chấp mà tuyên bố này đã loại trừ, ra trước bất cứ thủ tục giải quyết nào
đã được trù định trong Công ước.
3. Một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1,
thì không thể đưa ra một vụ tranh chấp, nằm trong một loại tranh chấp đã bị
loại trừ, ra trước một thủ tục nào đó trong số các thủ tục đã được trù định
trong Công ước, nếu không có sự thỏa thuận của quốc gi thành viên đang tranh
chấp với mình.
4. Nếu một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản
1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên nào khác cũng có thể đưa ra mọi tranh
chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố và nằm trong một loại tranh
chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục được định rõ trong tuyên bố
này.
5. Một tuyên bố mới hay một thông báo rút lui một tuyên bố
không hề có tác động đến thủ tục đang áp dụng trước một toàn án xét xử theo
đúng điều này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
6. Các tuyên bố hay các thông báo rút lui các tuyên bố nói ở
điều này phải được gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển, Tổng thư ký
Liên hợp quốc chuyển các bản sao các văn kiện đó cho các quốc gia thành viên.
1. Bất kỳ tranh chấp nào khi đã bị loại khỏi các thủ tục
giải quyết các tranh chấp được trù định ở Mục 2 theo Điều 297 hoặc bằng một
tuyên bố theo đúng Điều 298, thì chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo các thủ
tục này qua sự thỏa thuận của các bên tranh chấp.
2. Không một quy định nào của mục này đụng chạm đến quyền
của các bên tranh chấp trong việc thỏa thuận sử dụng một thủ tục khác để giải
quyết vụ tranh chấp, hay thỏa thuận giải quyết vụ tranh chấp bằng sự giàn xếp
ổn thỏa.
Các quốc gia thành viên phải có thiện chí hoàn thành các
nghĩa vụ đã đảm nhận theo nội dung Công ước, và thực hiện các quyền, thẩm quyền
và các tự do đã được thừa nhận trong Công ước, sao cho không để xảy ra tình
trạng lạm quyền.
Trong việc thực hiện các quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình
theo đúng Công ước, các quốc gia thành viên tránh dựa vào việc đe dọa hay sử
dụng vũ lực để xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của mọi quốc
gia hay tránh cùng bất kỳ cách nào khác không phù hợp với các nguyên tắc của
pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc.
Không phương hại đến quyền của mọi quốc gia thành viên dựa
vào các thủ tục giải quyết các vụ tranh chấp đã được trù định trong Công ước,
không qui định nào của Công ước có thể được giải thích như là bắt buộc một quốc
gia thành viên, trong khi thi hành các nghĩa vụ của mình theo Công ước, cung
cấp các thông tin mà việc tiết lộ sẽ là trái với các lợi ích thiết yếu của mình
về mặt an ninh.
Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các hiện vật có tính chất
khảo cổ hay lịch sử được phát hiện ở biển; các quốc gia hợp tác với nhau vì mục
đích ấy.
Để kiểm soát việc mua bán hiện vật này, bằng cách áp dụng
Điều 33, quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển
trong vùng nói ở điều đó mà không có sự thỏa thuận của mình là sự vi phạm các
luật và qui định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của
mình, đã được nêu ở Điều 33.
Điều này không đụng chạm đến các quyền của những người sở
hữu có thể được xác nhận, cũng không đụng chạm đến quyền thu hồi các xác tàu và
các qui tắc khác của luật hàng hải cũng không đụng chạm đến các luật và tập
quán về mặt trao đổi văn hóa.
Điều này không làm phương hại đến các điều ước quốc tế khác
và các qui tắc của pháp luật quốc tế liên quan đến việc bảo vệ các hiện vật có
tính chất khảo cổ hay lịch sử.
Các qui định của Công ước liên quan đến trách nhiệm trong
trường hợp xảy ra thiệt hại không phương hại đến việc áp dụng các qui tắc hiện
hành và việc lập ra các qui tắc mới liên quan đến trách nhiệm theo pháp luật
quốc tế.
1. Công ước để ngỏ cho các đối tượng sau đây được ký: Tất cả
các quốc gia;
Nước Na-mi-bi-a do Hội đồng của Liên hợp quốc về Na-mi-bi-a
đại diện;
Tất cả các quốc gia liên kết tự trị đã chọn chế độ này qua
một hành động tự quyết do Liên hợp quốc giám sát và phê chuẩn theo Nghị quyết 1514
(XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công ước đề cập,
kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Tất cả các quốc gia liên kết tự trị mà theo các văn bản liên
kết, có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký
các hiệp ước về các vấn đề đó;
Tất cả các lãnh thổ có quyền tự trị hoàn toàn về nội trị
được Liên hợp quốc thừa nhận, nhưng chưa giành được nền độc lập hoàn toàn phù hợp
với Nghị quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các vấn đề
mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Các tổ chức quốc tế theo đúng phụ lục IX.
Công ước để ngỏ cho việc ký kết tại Bộ Ngoại giao nước
Gia-mai-ca cho đến ngày 09-12-1984 cũng như tại trụ sở của Liên hợp quốc tại
Niu Oóc từ 1-7-1983 đến 9-12-1984.
Công ước phải được các quốc gia và các thực thể khác nói ở Điều
305, khoản 1, các điểm b, c, d và e phê chuẩn và được các thực thể nói ở khoản 1,
điểm f, của điều đó xác nhận chính thức theo đúng Phụ lục IX. Các văn kiện phê
chuẩn và xác nhận chính thức được lưu chiểu bên cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Công ước vẫn để ngỏ cho các quốc gia và thực thể khác nói ở
Điều 305 tham gia. Việc tham gia của các thực thể nói ở Điều 305, khoản 1, điểm
f do Phụ lục IX điều chỉnh. Các văn kiện tham gia được lưu chiểu bên cạnh Tổng
thư ký Liên hợp quốc.
1. Công ước có hiệu lực sau 12 tháng kể từ ngày gửi lưu
chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60.
2. Đối với mỗi quốc gia phê chuẩn Công ước hay tham gia vào
Công ước sau khi văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60 đã được gửi lưu chiểu,
thì Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày quốc gia này gửi lưu chiểu
văn bản phê chuẩn hay tham gia của mình, với điều kiện phải tuân thủ quy định ở
khoản 1.
Đại hội đồng của Cơ quan quyền lực sẽ nhóm họp vào ngày mà
Công ước bắt đầu có hiệu lực và sẽ bầu ra Hội đồng của Cơ quan quyền lực. Trong
trường hợp Điều 161 không thể thực hiện hoàn toàn đầy đủ, thì Hội đồng đầu tiên
phải được thành lập sao cho phù hợp với những mục tiêu đã nói ở điều đó.
Các quy tắc, quy định và thủ tục do Ủy ban trù bị soạn thảo
sẽ được tạm thời áp dụng trong khi chờ cho các qui tắc, qui định và thủ tục đó
được Cơ quan quyền lực chính thức thông qua theo đúng Phần XI.
Cơ quan quyền lực và các cơ quan của nó hành động theo đúng
nghị quyết II của Hội nghị luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc liên quan
đến các khoản vốn đầu tư ban đầu và với các quyết định của Ủy ban trù bị để thực
hiện nghị quyết này.
Công ước không chấp nhận bảo lưu, cũng không chấp nhận các ngoại
lệ ngoài những điều đã được các điều khác của Công ước cho phép một cách rõ
ràng.
Điều 309 không ngăn cấm một quốc gia, vào lúc mà quốc gia
này ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia vào Công ước, ra các tuyên bố, bất
kể lới văn hay tên gọi của tuyên bố đó thế nào, đặc biệt là nhằm điều hòa luật lệ
và qui định quốc của họ với Công ước, với điều kiện là các tuyên bố này không nhằm
loại trừ hay sửa đổi hiệu lực pháp lý của các qui định của Công ước trong việc
áp dụng chúng vào quốc gia này.
Giữa các quốc gia thành viên, Công ước có giá trị hơn các
Công ước Giơ-ne-vơ ngày 29 tháng 4 năm 1958 về luật biển.
Công ước không thay đổi chút nào về các quyền và nghĩa vụ
của các quốc gia thành viên bắt nguồn từ các Hiệp ước khác phù hợp với Công ước
và các quyền và nghĩa vụ đó không đụng chạm đến việc các quốc gia khác được
hưởng các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng như việc các quốc gia khác thi
hành nghĩa vụ của họ bắt nguồn từ Công ước.
Hai hoặc trên hai quốc gia thành viên tham gia vào Công ước
có thể ký các điều ước sửa đổi hay đình chỉ việc áp dụng các qui định của Công
ước và chỉ áp dụng vào các mối quan hệ giữa họ với nhau, với điều kiện là các
điều ước này không đụng đến một trong các qui định Công ước mà việc không tôn
trọng sẽ không phù hợp với việc thực hiện nội dung và mục đích của Công ước, và
cũng với điều kiện là các điều ước này không đụng chạm đến việc áp dụng các
nguyên tắc cơ bản đã được nêu trong Công ước, cũng không đụng chạm đến việc các
quốc gia khác hưởng và thi hành các quyền hay nghĩa vụ bắt nguồn từ Công ước.
Các quốc gia thành viên dự định ký kết một điều ước nói ở
khoản 3 cần thông báo cho các bên khác, qua trung gian của người lưu chiểu Công
ước, ý định ký kết điều ước của mình cũng như những sửa đổi hay việc đình chỉ
áp dụng các qui định của Công ước mà điều ước đó trù định.
Điều này không đụng chạm đến các điều ước quốc tế được phép
hay được duy trì một cách rõ ràng theo các điều khác của Công ước.
Các quốc gia thành viên thỏa thuận rằng không thể có sự sửa
đổi nào đối với nguyên tắc cơ bản về di sản chung của loài người đã được nêu
lên ở Điều 136 và các quốc gia này sẽ không tham gia vào một điều ước nào vi
phạm nguyên tắc ấy.
Sau một thời gian 10 năm kể từ ngày Công ước có hiệu lực,
mọi quốc gia thành viên có thể, qua văn bản gửi lên Tổng thư ký Liên hợp quốc,
đề nghị các điểm sửa đổi đối với Công ước về những điểm cụ thể, trong chừng mực
mà các điểm sửa đổi đó không nhằm vào các hoạt động tiến hành trong Vùng, và đề
nghị triệu tập một hội nghị có nhiệm vụ xem xét các điều sửa đổi được đề xuất
như vậy. Tổng thư ký chuyển văn bản này cho các quốc gia thành viên. Nếu trong
12 tháng sau ngày chuyển văn bản, có ít nhất là một nửa số quốc gia thành viên
trả lời một cách thuận lợi cho yêu cầu này, thì Tổng thư ký triệu tập hội nghị.
Trừ khi Hội nghị sửa đổi có quyết định khác, Hội nghị đó sẽ
áp dụng thủ tục ra quyết định đã được dùng trong hội nghị luật biển lần thứ III
của Liên hợp quốc. Hội nghị phải cố gắng hết sức để đi đến thỏa thuận về các
điểm sửa đổi bằng consensus (thỏa thuận) và hội nghị chỉ được tiến hành bỏ
phiếu về vấn đề khi mọi cố gắng để đạt tới một sự thỏa thuận không còn nữa.
Qua văn bản gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, mọi quốc
gia thành viên có thể đề nghị một điều sửa đổi đối với Công ước, không phải là
một điều sửa đổi nhằm vào các hoạt động tiến hành trong Vùng, và yêu cầu rằng
điều sửa đổi đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa được trù định trong điều
này, không cần triệu tập một hội nghị để xem xét điều sửa đổi đó. Tổng thư ký
Liên hợp quốc chuyển văn bản đó cho tất cả các quốc gia thành viên.
Nếu trong 12 tháng sau ngày chuyển văn bản này, một quốc gia
thành viên có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề nghị hay phản đối ý kiến
đề xuất nhằm làm cho điều sửa đổi đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa,
thì điều sửa đổi coi như bị bác bỏ. Tổng thư ký Liên hợp quốc thông báo ngay
việc đó cho tất cả các quốc gia thành viên.
Nếu 12 tháng sau ngày chuyển văn bản, không có một quốc gia
thành viên nào có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề xuất hay phản đối đề
nghị nhằm làm cho điều đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa, thì điều
sửa đổi được đề xuất coi như được chấp thuận. Tổng thư ký thông báo cho tất cả
các quốc gia thành viên việc chấp nhận điều sửa đổi đã được đề xuất này.
1. Qua biên bản gởi lên Tổng thư ký của Cơ quan quyền lực,
mọi quốc gia thành viên có thể đề nghị một điều sửa đổi đối với các qui định của
Công ước chỉ liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng, kể cả các qui
định của Mục 4 thuộc Phụ lục VI. Tổng thư ký gởi văn bản này cho tất cả các
quốc gia thành viên. Một khi Hội đồng chuẩn y, điểm sửa đổi được đề xuất phải được
Đại hội đồng chuẩn y. Đại biểu của các quốc gia thành viên có toàn quyền để xem
xét và thông qua điều sửa đổi được đề xuất. Đề nghị sửa đổi, như đã được Hội
đồng và Đại hội đồng chuẩn y, coi như được chấp thuận.
2. Trước khi chuẩn y một điều sửa đổi theo đúng khoản 1, Hội
đồng và Đại hội đồng phải biết chắc rằng điều sửa đổi không đụng chạm đến hệ
thống thăm dò và khai thác các tài nguyên của Vùng trong khi chờ đợi triệu tập
cuộc hội nghị xét duyệt lại theo đúng Điều 155.
Những điều sửa đổi đối với Công ước khi được thông qua, được
để ngỏ cho các quốc gia thành viên ký kết tại trụ sở của Liên hợp quốc ở Niu
Oóc, trong thời hạn là 12 tháng kể từ ngày thông qua các điều sửa đổi này, trừ
khi các điều sửa đổi đó có qui định khác.
Các Điều 306, 307 và 320 được áp dụng cho tất cả các điều
sửa đổi đối với Công ước.
Đối với các thành viên đã phê chuẩn hay đã tham gia công ước,
ngoài những điều đã nói ở khoản 5, sẽ có hiệu lực vào ngày thứ ba mươi tiếp sau
việc gửi lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay tham gia của hai phần ba số quốc
gia thành viên hay của 60 quốc qia thành viên, số lượng nào cao nhất sẽ được sử
dụng. Các điều sửa đổi không đụng chạm đến việc các quốc gia khác được hưởng các
quyền mà Công ước dành cho họ, cũng không đụng chạm đến việc họ thi hành các
nghĩa vụ bắt nguồn từ Công ước.
Một điều sửa đổi có thể trù định rằng, việc nó có hiệu đòi
hỏi phải có một số lượng quốc gia phê chuẩn hay tham gia cao hơn số lượng mà
điều này đòi hỏi.
Đối với một quốc gia đã phê chuẩn một điều sửa đổi nói ở
khoản 1 hay đã tham gia vào điều sửa đổi đó sau ngày số lượng các văn bản phê
chuẩn hay tham gia cần thiết đã được lưu chiểu, điều sửa đổi này có hiệu lực
vào ngày thứ ba mươi tiếp sau ngày nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia
của quốc gia thành viên đó.
Bất kỳ quốc gia nào khi trở thành thành viên của Công ước,
sau khi một điều sửa đổi có hiệu lực theo đúng khoản 1, nếu không biểu thị một
ý định khác, thì được coi như là:
Thành viên của Công ước đã được sửa đổi; và
Thành viên của Công ước không được sửa đổi đối với mọi quốc
gia thành viên không bị ràng buộc bởi các điều sửa đổi.
Các điều sửa đổi chỉ nhằm vào các hoạt động tiến hành trong
Vùng và các điều sửa đổi đối với Phụ lục VI sẽ có hiệu lực đối với tất cả các
quốc gia thành viên sau ngày có ba phần tư số quốc gia thành viên nộp lưu chiểu
các văn bản phê chuẩn hay tham gia.
Mọi quốc gia khi trở thành thành viên của Công ước, sau khi
các điều sửa đổi nói trong khoản 5 có hiệu lực được coi như thành viên của Công
ước đã được sửa đổi.
Một quốc gia thành viên có thể từ bỏ Công ước, qua thông báo
viết gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, và nói rõ những lý do của việc từ
bỏ. Dù quốc gia thành viên này không nêu rõ lý do đó, thì việc từ bỏ vẫn không
vì thế mà vô hiệu lực. Việc từ bỏ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày nhận được
thông báo, trừ khi trong thông báo có trù định một thời hạn chậm hơn.
Việc từ bỏ cũng không làm cho một quốc gia tránh khỏi các
nghĩa vụ về mặt tài chính và hợp đồng mà họ phải đảm nhận, khi mà quốc gia này
còn là thành viên của Công ước, và việc từ bỏ cũng không ảnh hưởng đến các quyển,
nghĩa vụ hay các địa vị pháp lý của quốc gia này bắt nguồn từ việc áp dụng Công
ước, trước khi Công ước không còn hiệu lực đối với quốc gia đó.
Việc từ bỏ không hề ảnh hưởng chút nào tới bổn phận của mọi
quốc gia thành viên phải làm tròn mọi nghĩa vụ đã nêu trong Công ước, mà quốc
gia này phải tuân thủ theo pháp luật quốc tế độc lập với Công ước.
Các phụ lục là bộ phận hoàn chỉnh của Công ước, một sự viện
dẫn Công ước cũng là một sự viện dẫn các phụ lục của nó và sự viện dẫn một phần
của Công ước cũng là sự viện dẫn các phụ lục có liên quan đến phần đó, trừ
trường hợp có quy định trái ngược rõ ràng.
Tổng thư ký Liên hợp quốc là người lưu chiểu Công ước và các
điều sửa đổi có liên quan đến công ước.
Ngoài chức năng của người lưu chiểu, Tổng thư ký Liên hợp quốc
còn:
Báo cáo cho tất cả các quốc gia thành viên, Cơ quan quyền
lực và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền về các vấn đề mang tính chất chung
xuất hiện liên quan đến Công ước.
Thông báo cho Cơ quan quyền lực các văn bản phê chuẩn, xác
nhận chính thức và tham gia Công ước và các điều sửa đổi đối với Công ước, cũng
như các văn bản từ bỏ các Công ước;
Thông báo cho các quốc gia thành viên các điều ước được ký
kết theo đúng với Điều 311, khoản 4;
Chuyển cho các quốc gia thành viên các điều sửa đổi đã được
thông qua theo đúng Công ước để phê chuẩn hay tham gia;
Triệu tập các cuộc họp cần thiết của các quốc gia thành viên
theo đúng Công ước.
3. a) Tổng thư ký cũng chuyển cho các quan sát viên nói ở
Điều 156: Các báo cáo nói ở khoản 2, điểm a;
Các thông báo nói ở khoản 2, điểm b và c;
Văn bản các điểm sửa đổi nói ở khoản 2, điểm d với tính chất
để thông báo.
b) Tổng thư ký cũng mời các quan sát viên này tham gia các
hội nghị của các quốc gia thành viên nói ở khoản 2 điểm e với tư cách là quan
sát viên
Nguyên bản của Công ước bằng tiếng Anh, Ả Rập, Trung Quốc,
Tây Ban Nha, Pháp, và Nga đều có giá trị chính thức như nhau và được lưu chiếu
bên cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc, theo Điều 305, khoản 2.
Để làm tin, các đại diện toàn quyền ký dưới đây là những
người được phép hợp thức ký vào Công ước.
Làm tại Môn-tê-gô Bay ngày mồng Mười tháng Mười hai năm Một
ngàn chín trăm tám mươi hai.
LIÊN HỢP QUỐC
Tên bằng tiếng Việt Nam
|
Tên bằng tiếng Pháp
|
Tên bằng tiếng La tinh
|
1. Cá ngừ vây dài
|
Thon blanc germon
|
Thunnus alalunga
|
2. Cá ngừ
|
Thon rouge
|
Thunnus thynnus
|
3. Cá ngừ mắt to
|
Thon abèse à grosoceil
|
Thunnis obesus
|
4. Cá ngừ vằn
|
Bonite à ventre rayé
|
Katsuwonus pelamis
|
5. Cá ngừ vàng
|
Thon à nageoire jaune
|
Thunnus albacares
|
6. Cá ngừ đen
|
Thon noir
|
Thunnus atlanticus
|
7. Cá ngừ Đài Loan
|
Thonine
|
Euthunnus alletteatus; Euthunnus affinis
|
8. Cá ngừ phương nam
|
Thon à nageoire bleue
|
Thunnus maccoyii
|
9. Cá ngừ dẹp
|
Auxide
|
Auxis thazard; Auxis rochie
|
10. Cá ven biển
|
Brème de mẻ
|
Bramide
|
11. Cá ngừ môn nhái
|
Martin
|
Tetrapturus angustirostris; Tetrapturus belone;
Tetrapturus pluegeri; Tetrapturusalbidus; Tetrapturus audax; Tetrapturus
georgei;
Makaira mazara; Makaira india; Makaira nigricans;
Istiophorus platyterus
|
12. Cá cờ
|
Voilier
|
Istiophorus albicans
|
13. Cá mũi kiếm
|
Espadon
|
Xiphias gladius
|
14. Cá thu đao
|
Sauri ou balaou
|
Scomberesor saurus; cololabis saira; Cololabis adocetus; Scomberesox
saurus; Scombroides
|
15. Cá nục heo
|
Coryphène ou dorade tropicale
|
Corypheana hippurus; Corypheana equiselis
|
16. Cá nhám
|
Requin
|
Hexanchusgriseus; Cetorhinus maximus; Alpildae; Rhincodon typus;
Carcharhinidae; Sphyrnidae; Isuridae
|
17. Cá loài cá voi
|
Cétacés
|
Physeteridae; Balaenopteridae; Balanenidae;
Eschrichtiidae; Monodontidae;Ziphiidae; Deiphinidae.
|
ĐIỀU 1. Để thi hành Điều 76, một ủy ban ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hoải lý
được thành lập theo đúng các điều sau đây.
ĐIỀU 2.
1. Ủy ban gồm 21 ủy viên là chuyên gia về địa chất, địa vật
lý hay địa thủy văn, do các quốc gia thành viên tham gia Công ước lựa chọn
trong số công dân của mình, có tính đến sự cần thiết phải bảo đảm một sự đại
diện công bằng về địa lý, các ủy viên này phải thi hành các chức trách của mình
với tư cách cá nhân.
2. Cuộc bầu cử đầu tiên sẽ được tiến hành ngay khi có điều
kiện, và dù sao cũng phải được tiến hành trong một thời hạn là 18 tháng kể từ
khi Công ước có hiệu lực. Ít nhất là ba tháng trước ngày tiến hành mỗi cuộc bầu
cử, Tổng thư ký Liên hợp quốc gửi một văn thư cho các quốc gia thành viên để
mời họ giới thiệu ứng cử viên, sau khi đã có các cuộc tham khảo ý kiến thích
hợp ở khu vực và việc này tiến hành trong một thời hạn là ba tháng. Tổng thư ký
lập ra một danh sách theo thứ tự a, b, c, tất cả các ứng cử viên được chỉ định
nói trên và gửi danh sách này cho tất cả quốc gia thành viên.
3. Việc bầu cử các ủy viên của Ủy ban được tiến hành trong
một hội nghị của các quốc gia thành viên do Tổng thư ký triệu tập tại trụ sở
của Liên hiệp quốc. Số đại biểu cần thiết (quorum) là hai phần ba số phiếu của
các đại biểu có mặt và bỏ phiếu, thì trúng cử ủy viên của Ủy ban. Mỗi vùng địa lý
được tuyển chọn ít nhất ba ủy viên.
4. Các ủy viên của Ủy ban được bầu với một nhiệm kỳ là 5
năm. Họ có thể được bầu lại.
5. Quốc gia thành viên nào đã giới thiệu ứng cử viên vào Ủy
ban phải bảo đảm mọi khoản chi tiêu cho ủy viên đó khi họ thi hành phận sự của
mình nhân danh Ủy ban, quốc gia ven biển hữu quan phải chịu các kinh phí có
liên quan đến những ý kiến nêu ở Điều 3, khoản 1, điểm d của phụ lục này. Chi
phí Văn phòng của Ủy ban do Tổng thư ký Liên hiệp quốc bảo đảm.
ĐIỀU 3.
Các chức năng của Ủy ban là:
Xem xét các số liệu và các thông tin khác do các quốc gia
ven biển gửi đến có liên quan đến ranh giới ngoài của thềm lục địa, khi thềm
lục địa này mở rộng quá 200 hải lý và đưa ra các kiến nghị theo đúng điều 76,
và Giác thư thỏa thuận (Memorandum d’accord) đã được Hội nghị luật biển lần thứ
III của Liên hợp quốc thông qua ngày 39-8-1980.
Theo yêu cầu của quốc gia ven hữu quan, phát biểu các ý kiến
về khoa học và kỹ thuật để xây dựng các số liệu ở ý kiến về khoa học và kỹ
thuật để xây dựng các số liệu nói ở điểm trên.
Trong phạm vi được đánh giá là cần thiết và hữu ích, Ủy ban
có thể hợp tác với Ủy ban Hải dương học liên chính phủ của UNESCO, Tổ chức thủy
văn quốc tế và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khác nhằm thu được các số liệu
khoa học và kỹ thuật có thể giúp cho mình hoàn thành trách nhiệm.
ĐIỀU 4. Quốc gia ven biển nào dự định xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa
ngoài 200 hải lý theo Điều 76 cần gửi cho Ủy ban ngay khi có điều kiện và trong
bất kỳ hoàn cảnh nào trong một thời hạn 10 năm kể từ khi công ước có hiệu lực
đối với quốc gian này, các đặc điểm của ranh giới này với những số liệu khoa
học và kỹ thuật để chứng minh. Đồng thời, quốc gia ven biển thông báo tên tất
cả các ủy viên của Ủy ban đã cung cấp cho mình các ý kiến về khoa hoc và kỹ
thuật.
ĐIỀU 5. Trừ trường hợp Ủy ban có quyết định khác, Ủy ban hoạt động thông qua
hai tiểu ban gồm bảy ủy viên được chỉ định một cách cân bằng có tính đến các
yếu tố riêng của mỗi đơn yêu cầu do một quốc gia ven biển gửi lên các ủy viên
của Ủy ban là công dân của quốc gia này các ý kiến về khoa học và kỹ thuật về
đường ranh giới này, không thể tham gia vào tiểu ban có trách nhiệm xem xét đơn
yêu cầu, nhưng học có quyền tham gia với tư cách là các ủy viên vào các công
việc của Ủy ban có liên quan đến đơn này. Quốc gia ven biển khi đã gửi một đơn
yêu cầu lên Ủy ban, thì có thể gửi các đại diện của mình tới tham gia các công việc
thích hợp, nhưng không có quyền biểu quyết.
ĐIỀU 6.
1. Tiểu ban gửi các kiến nghị của mình lên Ủy ban.
2. Ủy ban chuẩn y các kiến nghị của Tiểu ban theo đa số hai
phần ba các ủy viên và bỏ phiếu.
3. Các kiến nghị của Ủy ban được gửi bằng văn bản tới quốc
gia ven biển đã đưa đơn yêu cầu cũng như cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
ĐIỀU 7. Các quốc gia ven biển xác định ranh giới ngoài thềm lục địa của mình
theo đúng Điều 76, khoản 8 và theo các thủ tục quốc gia thích hợp.
ĐIỀU 8. Nếu không đồng ý với các kiến nghị của Ủy ban, quốc gia ven biển gửi lên
cho Ủy ban trong một thời hạn hợp lý một đơn yêu cầu đã được xem xét lại hoặc
một đơn mới.
ĐIỀU 9. Các hành động của Ủy ban không xét đoán trước các vấn đề liên quan đến
việc thiết lập các ranh giới giữa các quốc gia mà bờ biển tiếp liền hoặc đối
diện.
ĐIỀU 1. Các quyền đối với các khoảng sản
Việc chuyển giao các quyền đối với các khoáng sản diễn ra
vào lúc khai thác các khoáng sản này theo đúng Công ước.
ĐIỀU 2. Thăm dò
1. a) Cơ quan quyền lực khuyến khích việc thăm dò trong
vùng.
b) Việc thăm dò chỉ có thể bắt đầu khi Cơ quan quyền lực
nhận được của người sẽ tiến hành thăm dò một bản cam đoan thỏa đáng là sẽ tôn trọng
Công ước, các quy tắc, quy định và thủ tục của cơ quan quyền lực có liên quan
đến việc hợp tác trong các chương trình đào tạo nói trong các Điều 143 và 144
và về việc bảo vệ môi trường biển, và người đó chấp nhận để cho Cơ quan quyền
lực kiểm tra việc thi hành của mình. Đồng thời với bản cam đoan này, người sẽ
tiến hành thăm dò sẽ thông báo cho Cơ quan quyền lực biết các giới hạn gần đúng
của khu vực hay các khu vực sẽ tiến hành thăm dò.
c) Công việc thăm dò có thể được nhiều người thăm dò thực
hiện đồng thời trong cùng một hay cùng những khu vực.
2. Việc thăm dò không dành cho người thăm dò một quyền nào
đối với các tài nguyên. Tuy nhiên, người thăm dò có thể khai thác một số lượng
hợp lý khoáng sản để làm mẫu.
ĐIỀU 3. Khảo sát và khai thác
1. Xí nghiệp, các quốc gia thành viên và các thực thể hay cá
nhân khác nói ở Điều 153, khoản 2, điểm b, có thể yêu cầu cơ quan quyền lực phê
chuẩn các kế hoạch làm việc về hoạt động tiến hành trong vùng.
2. Xí nghiệp có thể làm một đơn yêu cầu nhằm vào bất kỳ khu
vực nào của vùng, nhưng các đơn yêu cầu đối với các khu vực dành riêng do các
thực thể hay cá nhân khác gửi đến khi còn phải thỏa mãn các điều kiện đã nêu ở
Điều 9 của Phụ lục này.
3. Việc khảo sát và khai thác chỉ tiến hành trong những khu
vực đã được nói rõ trong các kế hoạch làm việc đã nêu ở Điều 153, khoản 3 và đã
được Cơ quan quyền lực chuẩn y theo đúng Công ước, và các quy tắc, quy định và
thủ tục tương ứng của Cơ quan quyền lực.
4. Mọi kế hoạch làm việc được chuẩn y đều phải:
a) Phù hợp với công ước và các quy tắc, quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực;
b) Trù định việc kiểm soát của cơ quan quyền lực đối với các
hoạt động tiến hành trong Vùng, theo đúng Điều 153, khoản 4;
c) Trao cho người khai thác, theo đúng các quy tắc, quy định
và thủ tục của Cơ quan quyền lực, các đặc quyền đối với việc khảo sát và khai
thác trong khu vực nói trong kế hoạch làm việc, các loại tài nguyên được ghi rõ
trong kế hoạch làm việc chỉ liên quan đến giai đoạn khảo sát hay khai thác, thì
người đó chỉ được giao cho các đặc quyền đối với giai đoạn đó thôi.
5. Một khi được cơ quan quyền lực chuẩn y, mọi kế hoạch làm
việc, nếu không phải là kế hoạch làm việc do xí nghiệp đề nghị, đều mang hình
thức một hợp đồng ký kết giữa cơ quan quyền lực và người hay những người yêu
cầu.
ĐIỀU 4. Các điều kiện về tư cách của những người yêu cầu
1. Ngoài các xí nghiệp ra, những người yêu cầu được coi là
có tư cách, là những người thực hiện đầy đủ các điều kiện nói trong Điều 153,
khoản 2, điểm b về các vấn đề quốc tịch hay vấn đề về kiểm soát và bảo trợ, và
tuân theo các thủ tục, đáp ứng các tiêu chuẩn về tư cách đã được nêu trong các
quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
2. Với điều kiện tuân thủ khoản 6, các tiêu chuẩn về tư cách
đó có liên quan tới khả năng tài chính và kỹ thuật của người yêu cầu, cũng như
với tư cách mà người này thực hiện các hợp đòng ký kết trước đây vơi Cơ quan
quyền lực.
3. Mọi người yêu cầu đều phải được quốc gia thành viên mà
người yêu cầu là công dân, bảo trợ, trừ khi người yêu cầu có qua một quốc tịch
như: trong trường hợp một Công ty hay Công-xoóc-xi-om gồm nhiều thực thể cá
nhân thuộc các quốc gia khác nhau, tất cả các quốc gia thành viên hữu quan phải
bảo trợ đơn yêu cầu; trong trường hợp người yêu cầu do một quốc gia thành viên
khác hay các công dân của quốc gia khác này kiểm soát một cách thực sự và thủ
tục áp dụng các điều kiện bảo trợ được nêu trong các quy định quy tắc và thủ
tục của Cơ quan quyền lực.
4. Theo điều 139 và theo chế độ pháp lý của mình, quốc gia
thành viên hay các quốc gia thành viên bảo trợ một đơn yêu cầu có nghĩa vụ tham
quan tâm đến các hoạt động trong vùng của một người ký kết, mà quốc gia đó hay
các quốc gia bảo trợ, được tiến hành theo đúng các nghĩa vụ của họ theo hợp đồng
và theo Công ước. Tuy nhiên, một quốc gia thành viên không chịu trách nhiệm về
những tổn thất gây ra do thiếu sót của người ký kết mà mình bảo trợ đối với
những nghĩa vụ của người đó, nếu quốc gia nói trên đã thông qua các luật và qui
chế và đã quy định các biện pháp hành chính, mà đối với chế độ pháp lý của quốc
gia này, thì thích hợp một cách đúng mức để bảo đảm cho những người thuộc quyền
tài phán của mình tôn trọng thực sự các nghĩa vụ đó.
5. Các thủ tục để xét đơn của các quốc gia thành viên phải
tính đến tư cách Nhà nước của họ.
6. Các tiêu chuẩn tư cách đòi hỏi bất kỳ người yêu cầu nào,
không ngoại lệ, cũng phải cam đoan trong đơn yêu cầu của mình:
a) Chấp nhận coi như có tính chất bắt buộc và tôn trọng các
nghĩa vụ của mình theo phần XI, các quy tắc quy định, thủ tục của Cơ quan quyền
lực, các quyết định của các cơ quan của Cơ quan quyền lực và các điều khoản của
các hợp đồng đã được ký kết với Cơ quan quyền lực;
b) Chấp nhận để Cơ quan quyền lực thực hiện việc kiểm soát
như Công ước đã cho phép đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng;
c) Cung cấp cho Cơ quan quyền lực bản cam đoan sẽ hoàn thành
một cách trung thực những nghĩa vụ của mình theo hợp đồng;
d) Tông trọng các điều quy định liên quan đến việc chuyển giao
các kỹ thuật đã nêu trong Điều 5 của phụ lục này.
ĐIỀU 5. Chuyển giao các kỹ thuật
1. Khi đệ trình một kế hoạch làm việc, mọi người yêu cầu đều
phải cung cấp cho Cơ quan quyền lực một bản mô tả chung về trang bị các phương
pháp sẽ được sử dụng đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, các thông tin
tương ứng khác không phải là sở hữu công nghiệp và có liên quan đến các đặc
tính của các kỹ thuật được dự tính, cũng như các thông tin chỉ rõ nơi có các kỹ
thuật này.
2. Mọi người khai thác đều thông báo cho Cơ quan quyền lực
các điều thay đổi đối với bản mô tả các dữ kiện và các thông tin đã đưa đến cho
Cơ quan quyền lực sư dụng theo khoản 1, mỗi khi có sự sửa đổi hay đổi mới về kỹ
thuật quan trọng.
3. Mọi hợp đồng về các hoạt động trong vùng đều phải có các
điều khoản; trong đó, người ký hợp đồng cam đoan:
a) Theo yêu cầu của Cơ quan quyền lực, theo các thể thức và điều
kiện thương mại công bằng, hợp lý, để cho xí nghiệp sử dụng các kỹ thuật mà
mình dùng để tiến hành các hoạt động trong vùng theo hợp đồng và mình có quyền
chuyển giao. Việc chuyển giao này được tiến hành qua các thỏa thuận về giấy phép
hay các dàn xếp thích hợp khác, mà người khai thác thương lượng với xí nghiệp
và đã được ghi lại trong một bản thỏa thuận đặc biệt bổ sung cho hợp đồng. Sự
cam kết này chỉ có thể được đề cập, nếu xí nghiệp xét thấy rằng, mình không có
khả năng có được trên thị trường tự do chính những kỹ thuật này hoặc những kỹ
thuật cũng có hiệu quả và thích hợp như thế, theo các thể thức và điều kiện
thương mại công bằng, hợp lý;
b) Nhận được bản cam kết của người sở hữu mọi kỹ thuật dùng để
tiến hành các hoạt đọng trong Vùng theo hợp đồng và không được nêu ở điểm a, và
nói chung cũng không có sẵn trên thị trường tự do; bản cam kết đó nói rằng theo
yêu cầu của Cơ quan quyền lực, người đó sẽ cho phép Xí nghiệp, qua các thỏa
thuận về giấy phép hay các dàn xếp thích hợp khác, sử dụng các kỹ thuật này
trong cùng một mức độ của người ký hợp đồng, theo các thể thức và điều kiện
thương mại công bằng, hợp lý. Nếu không có cam kết này, thì người khai thác
không thể được sử dụng các kỹ thuật nói trên để tiến hành các hoạt động trong
Vùng.
c) Theo yêu cầu của Xí nghiệp và nếu có thể tiến hành mà
không làm cho người ký kết hợp đồng phải chịu những chi phí quan trọng thì bằng
một hợp đồng có tính chất bắt buộc phải chấp hành, đạt được quyền chuyển giao cho
Xí nghiệp mọi kỹ thuật dùng để tiến hành các hoạt động trong Vùng theo danh
nghĩa của hợp đồng, mà người đó chưa có quyền chuyển giao và nói chung không
sẵn có trên thị trường tự do. Nếu có mối liên hệ thực chất trong khuôn khổ của
một công ty, giữa người khai thác và người sở hữu kỹ thuật, thì tính chất chặt
chẽ của mối liên hện này và mức độ kiểm soát hay ảnh hưởng được lưu ý đến khi
cần xác định xem họ đã cố gắng hết sức để có được quyền đó không. Nếu người ký
hợp đồng có sự kiểm soát thực sự đối với người sở hữu và không giành được từ
người sở hữu quyền đó, thì điều đó sẽ được tính đến trong việc xác định tư cách
của người ký hợp đồng, khi họ đưa một đơn mới xin chuẩn y một kế hoạch làm
việc.
d) Nếu Xí nghiệp yêu cầu, thì tạo điều kiện dẽ dàng để Xí
nghiệp có được mọi kỹ thuật nói ở điểm b, qua các thỏa thuận về giấy phép hoặc
các dàn xếp thích hợp khác, theo các thể thức và điều kiện thương mại công bằng
và hợp lý, trong trường hợp mà Xí nghiệp quyết định sẽ thương lượng trực tiếp
với người sỡ hữu kỹ thuật nói trên:
e) Áp dụng cũng các quy định như các quy định đã ghi ở điểm
a, b, c và d đối với một quốc gia hay một nhóm quốc gia đang phát triển đang
xin ký kết một hợp đồng theo Điều 9 của phụ lục này, với điều kiện là: các điều
quy định này giới hạn ở việc khai thác phần của khu vực mà người ký kết hợp
đồng đề nghị đã được dành riêng theo Điều 8 của phụ lục này; các hoạt động được
trù định trong hợp đồng mà quốc gia hay nhóm quốc gia đang phát triển đang ký
kết không dẫn đến việc chuyên giao kỹ thuật vì lợi ích của một quốc gia thứ ba
hay của các công dân của một quốc gia thứ ba. Nghĩa vị do điều quy định này trù
định chỉ áp dụng đối với các người ký hợp đồng có những kỹ thuật không phải là đối
tượng của một yêu cầu chuyển gia cho Xí nghiệp.
4. Các tranh chấp liên quan đến các cam kết đòi hỏi ở khoản
3, cũng như những tranh chấp liên quan đến các điều khoản khác của hợp đồng,
thuộc phạm vi của giải quyết tranh chấp có tính chất bắt buộc được trừ định
trong Phần XI, và việc không tôn trọng các cam kết này có thể bị phạt tiền và
bị đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng, theo đúng Điều 18 của Phụ lục này. Các tranh
chấp về vấn đề xét xem các đề nghị của người ký kết hợp đồng có bao hàm các thể
thức và điều kiện thương mại công bằng và hợp lý không, có thể được một trong
các bên nào đó đưa ra giải quyết theo thủ tục trọng tài thương mại có tính chất
bắt buộc được trù định trong bản Quy tắc trọng tài của CNUDCI hay theo bất kỳ thủ
tục trọng tài nào khác được quy định trong quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ
quan quyền lực. Nếu trọng tài đi đến kết luận phủ đình về vấn đề đó, thì người
ký kết hợp đồng có được 45 ngày để sửa đổi đề nghị của mình nhằm làm cho nó bao
gồm các thể thức và điều kiện thương mại công bằng theo Điều 18 của Phụ lục
này.
5. Nếu Xí nghiệp không có khả năng có được các kỹ thuật
thích hợp theo các thể thức và điều kiện thương mại công bằng, hợp lý để Xí
nghiệp thực hiện đúng lúc việc khai thác và chế biến các khoáng sản của Vùng,
thì Hội đồng và Đại hội đồng có thể triệu tập một nhóm các quốc gia thành viên,
bao gồm các quốc gia tiến hành các hoạt động như vậy trong Vùng và các quốc gia
khác nắm được những kỹ thuật này. Sau khi đã thảo luận, nhóm này thi hành các
biện pháp có hiệu quả cao sao cho Xí nghiệp được sử dụng các kỹ thuật này theo
các thể thức và điều kiện thương mại công bằng hợp lý. Mỗi quốc gia thành viên
trên sẽ thi hành tất cả mọi biện pháp thực tế thực hiện mục đích đó, trong
khuôn khổ chế độ pháp luật của mình.
6. Trong trường hợp các công ty liên doanh với Xí nghiệp,
việc chuyển giao các kỹ thuật được tiến hành theo đúng vơi thỏa thuận về các
công ty liên doanh đó.
7. Các cam kết đòi hỏi ở khoản 3 được ghi vào mỗi hợp đồng
về các hoạt động trong Vùng đến hết một thời hạn 10 năm, sau khi Xí nghiệp bắt
đầu việc sản xuất hàng hóa và có thể được viện dẫn trong thời hạn này.
8. Trong điều này, thuật ngữ “kỹ thuật” dùng để chit thiết
bị chuyên dụng và bí quyết kỹ thuật, kể cả các bản mô tả, sổ tay, tài liệu
hướng dẫn, việc đào tạo, các hướng dẫn về kỹ thuật và việc giúp đỡ kỹ thuật cần
thiết để lắp đặt, bảo dưỡng và vận hành một hệ thống có thể đứng vững được, cũng
như, quyền sử dụng các yếu tố nói trên vào mục đích này trên cơ sở không có
tính chất đặc quyền.
ĐIỀU 6. Việc chuẩn y các kế hoạch làm việc
1. Sáu tháng sau khi Công ước có hiệu lực, Cơ quan quyền lực
sẽ tiến hành xem xét các kế hoạch làm việc đã được đề nghị, sau đó cứ bốn tháng
lại xét một lần.
2. Khi xem xét một đơn xin chuẩn y một kế hoạch làm việc
dưới hình thức một hợp đồng, trước hết, Cơ quan quyền lực phải xác định:
a) Xem người yêu cầu có tuân theo các thủ tục đệ đơn yêu cầu
nói trong Điều 4 của Phụ lục này không, xem người yêu cầu có cam kết và có
những đảm bảo đối với Cơ quan quyền lực theo đòi hỏi của điều này không. Nếu
các thủ tục này không được tuân thủ, hoặc thiếu một trong những cam kết và đảm
bảo nào đó nêu trên, Cơ quan quyền lực cho người yêu cầu một thời hạn là 45
ngày để sửa chữa các thiếu sót đó;
b) Xem người yêu cầu có đủ tư cách theo tinh thần của Điều 4
của phụ lục này không.
3. Tất cả các kế hoạch làm việc đã đề nghị đều được xem xét
theo thứ tự tiếp nhận. Các kế hoạch làm việc đã đề nghị phải phù hợp và tôn
trọng các điều quy định tương ứng của Công ước cũng như các quy tắc, quy định
và thủ tục của Cơ quan quyền lực, kể cả các điều kiện liên quan đến các nghiệp
vụ, những đóng góp tài chính và những cam kết về việc chuyển giao kỹ thuật. Cơ quan
quyền lực chuẩn y những kế hoạch làm việc được đề nghị phù hợp với các điều quy
định này, với điều kiện là chúng cũng phù hợp với những điều kiện như nhau và
không phân biệt đối xử nói trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực, trừ khi:
a) Một phần hay toàn bộ vùng mà kế hoạch làm việc được đề
nghị nhắm vào nằm trong một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y hay trong một kế hoạch
làm việc đã được đề nghị trước mà Cơ quan quyền lực còn chưa có quyết định cuối
cùng;
b) Việc khai thác một phần hay toàn bộ Vùng mà kế hoạch làm
việc được đề nghị nhắm vào đã bị Cơ quan quyền lực bác bỏ theo Điều 162, khoản
2, điểm x; hay
i. Quốc gia đã được chuẩn y các kế hoạch làm việc liên quan
đến việc thăm dò và khai thác các vỉa quặng khối đa kim trong những khu vực không
được dành riêng; khi diện tích của chúng, cộng thêm với diện tích của phần này
hay phần khác của Vùng mà kế hoạch làm việc được đề nghị nhắm vào, sẽ vượt quá
30% diện tích của một vùng hình tròn có diện tích 400.000 km2 được xác định từ
tâm của phần này hay một phần khác của vùng nói trong kế hoạch làm việc được đề
nghị;
ii. Quốc gia đã được chuẩn y các kế hoạch làm việc liên quan
đến việc thăm dò và khai thác các vỉa quặng khối đa kim trong các khu vực không
được dành riêng có diện tích toàn bộ bằng 2% tổng diện tích của Vùng chưa được dành
riêng và việc khai thác chưa bị loại trừ theo Điều 162, khoản 2, điểm x.
4. Để áp dụng quy tắc đã nêu ở khoản 3, điểm c, một kế hoạch
làm việc do một công ty hay một công – xoóc – om đề nghị phải được khấu theo tỷ
lệ vào các quốc gia thành viên bảo trợ cho công ty hay công – xoóc – om theo
đúng Điều 4 khoản 3 của phụ lục này. Cơ quan quyền lực có thể chuẩn y các kế
hoạch làm việc do khoản 3, điểm c điều chỉnh, nếu Cơ quan quyền lực xác minh được
rằng, việc chuẩn y này không cho phép một quốc gia thành viên hay các thực thẻ
hoặc quyền về các hoạt động trong Vùng hay cản trở các quốc gia thành viên khác
tiến hành các hoạt động trong Vùng.
5. Mặc dù đã có khoản 3, điểm a, sau khi kết thúc giai đoạn quá
độ nói ở điều 151, khoản 3, Cơ quan quyền lực có thể dựa vào các quy tắc, quy
định và thủ tục để thông qua các thủ tục và tiêu chuẩn khác phù hợp với Công ước,
để xác định trong số các người đệ trình các kế hoạch làm việc đối với một vùng
nào đó, kế hoạch của ai sẽ được chuẩn y trong trường hợp cần có sự lựa chọn.
Các thủ tục và tiêu chuẩn này phải đảm bảo cho việc chuẩn y các kế hoạch làm
việc trên một cơ sở công bằng và không phân biệt đối xử.
ĐIỀU 7. Sự lựa chọn giữa những người xin cấp giấy phép sản
xuất
1. Sáu tháng sau khi Công ước có hiệu lực, sau đó cứ 4 tháng
một, Cơ quan quyền lực xem xét các đơn xin cấp giấy phép sản xuất đã gửi tới
trong thời kỳ trước đó. Nếu tất cả các đơn yêu cầu này có thể được chuẩn y mà
không làm cho các giới hạn sản lượng bị vượt quá và không làm cho Cơ quan quyền
lực vi phạm những nghĩa vụ mà mình phải bảo đảm theo một hiệp định, hay một
thỏa thuận về sản phẩm mà Cơ quan quyền lực là thành viên, như đã trù định ở
Điều 151, thì Cơ quan quyền lực cấp các giấy phép đã được yêu cầu.
2. Khi một sự lựa chọn cần phải được tiến hành giữa những
người xin cấp giấy phép sản xuất do vấn đề giới hạn sản lượng đươc trù định ở
Điều 151, các khoản từ 2 đến 7, hoặc do các nghĩa vụ thuộc bổn phận của Cơ quan
quyền lực theo một hiệp định hay một thỏa thuận về sản phẩm, trong đó Cơ quan
quyền lực là thành viên như đã được trù định ở Điều 151, khoản 1, thì Cơ quan quyền
lực tiến hành việc lựa chọn này dựa trên cơ sở các tiêu chuẩn khách quan và
không phân biệt đối xử đã được ấn định trong các quy tắc quy định và thủ tục
của mình.
3. Trong việc áp dụng khoản 2, Cơ quan quyền lực dành ưu
tiên cho những người yêu cầu:
a) Đưa ra những bảo đảm tốt nhất về hiệu quả theo khả năng
tài chính kỹ thuật của họ, và theo cách thức mà họ thực hiện các kế hoạch làm
việc đã được chuẩn y trước, nếu như có các kế hoạch đó;
b) Cho cơ quan quyền lực thấy triển vọng có các khoản thu
tài chính nhanh hơn, tính theo thời hạn trù định để bắt đầu việc sản xuất hàng
hóa;
c) Đã đầu tư nhiều nhất về vốn liếng và công sức trong việc
kháp sát và thăm dò.
4. Những người yêu cầu nào không được lựa chọn trong một
thời kỳ nào đó; thì được ưu tiên trong thời kỳ sau cho đến lúc được cấp một
giấy phép sản xuất.
5. Việc lựa chọn được tiến hành có tính đến sự cần thiết
phải tạo cho tất cả các quốc gia thành viên có được khả năng để tham gia tốt
nhất vào các hoạt động trong Vùng và sự cần thiết tránh độc quyền hóa các hoạt
động này không phụ thuộc vào chế độ kinh tế và xã hội của các quốc gia đó hay
vị trí địa lý của họ nhằm đảm bảo không có sự phân biệt đối xử với bất cứ quốc
gia hay chế độ nào.
6. Mỗi khi trong hiện tình khai thác, có khu vực được dành
riêng hơn khu vực không dành riêng, thì các đơn xin phép liên quan đến các khu
vực dành riêng được ưu tiên.
7. Cơ quan quyền lực ra các quyết định nói ở điều này càng
sớm, càng tốt, sau khi kết thúc mỗi thời kỳ.
ĐIỀU 8. Việc dành riêng các khu vực
Mỗi đơn yêu cầu, không phải là các đơn yêu cầu của các Xí
nghiệp hay của cả các thực thể hay cá nhân khác và về các khu vực dành riêng,
cần phải bao gồm một khu vực, không nhất thiết phải liền một mạch, có tổng diện
tích và một giá trị thương mại ước tính đủ để cho phép tiến hành hai hoạt động
khai thác mỏ. Người yêu cầu chỉ rõ các tọa độ cho phép chia khu vực làm hai
phần có giá trị thương mại ước tính bằng nhau và thông báo tất cả các số liệu
mà mình thu được đối với hai phần của khu vực. Không phương hại đến các quyền
hạn của Cơ quan quyền lực có liên quan đến các khối đa kim và các kim loại
trong khối đó. Trong vòng 45 ngày tiếp sau khi nhận được các số liệu này, Cơ
quan quyền lực sẽ tiến hành thông qua Xí nghiệp hay hợp tác với các quốc gai
đang phát triển. Sự chỉ định này có thể kéo dài thêm 45 ngày nữa, nếu Cơ quan
quyền lực trao cho một chuyên gia độc lập xác định xem tất cả các số liệu mà điều
này đòi hỏi có được thông báo cho Cơ quan quyền lực không. Khu vực được chỉ
định trở thành một khu vực được dành riêng ngay khi kế hoạch làm việc liên quan
đến khu vực không được dành riêng được chuẩn y và hợp đồng được ký kết.
ĐIỀU 9. Các hoạt động được tiến hành trong khu vực được dành
riêng
1. Xí nghiệp được quyền quyết định có tự mình tiến hành các
hoạt động trong mỗi khu vực dành riêng hay không. Quyết định này có thể được
đưa ra bất kỳ thời điểm nào, trừ khi Cơ quan quyền lực nhận được một thông báo
theo đúng khoản 4, trong trường hợp này, xí nghiệp phải ra quyết định trong một
thời hạn hợp lý. Xí nghiệp có thể quyết định tiến hành khai thác các khu vực
này , với danh nghĩa của các xí nghiệp liên doanh với quốc gia hoặc thực thể
hay cá nhân hữu quan.
2. Xí nghiệp có thể ký kết các hợp đồng để thi hành một phần
các hoạt động của mình theo đúng Điều 12 của Phụ lục IV. Để tiến hành các hoạt
động này, xí nghiệp cũng có thể hợp tác trong các xí nghiệp liên doanh với bất
kỳ thực thể hay cá nhân nào có tư cách tiến hành các hoạt động trong Vùng theo
Điều 153, khoản 2, điểm b. Khi dự tính đến các xí nghiệp liên doanh thuộc loại
này, xí nghiệp tạo cho các quốc gia thành viên là những quốc gia đang phát
triển, cũng như các công dân của các quốc gia này có được khả năng tham gia
thực sự.
3. Trong các quy tắc, quy định và thủ tục của mình, cơ quan
quyền lực có thể quy định các điều kiện về nội dung và về thủ tục điều chỉnh
các hợp đồng và xí nghiệp liên doanh kể trên.
4. Bất kỳ quốc gia thành viên nào là quốc gia đang phát
triển, hoặc bất kỳ tự nhiên nhân hay pháp nhân nào do quôc gia này bảo trợ và
do quốc gia này hay một quốc gia đang phát triển khác kiểm soát thật sự, là một
người yêu cầu có tư cách, hoặc mọi nhóm của các loại nói trên, đều có thể thông
báo cho cơ quan quyền lực ý muốn của mình đưa ra một kế hoạch làm việc đối với
khu vực được dành riêng theo Điều 6 của Phụ lục này. Kế hoạch làm việc được xem
xét, nếu xí nghiệp quyết định theo khoản 1, không tiến hành hoạt động trong khu
vực này.
ĐIỀU 10. Ưu đãi và ưu tiên dành cho một số yêu cầu
Khi mà theo điều 3, khoản 4, điểm c của phụ lục này, một kế
hoạch làm việc đã được chuẩn y chỉ để thăm dò, thì người đưa ra kế hoạch đó sẽ
được ưu tiên ưu đãi hơn so nới các người yêu cầu khác, nếu người yêu cầu ấy đưa
ra một kế hoạch làm việc về vấn đề khai thác cùng khu vực đó đối với cùng những
tài nguyên ấy. Tuy nhiên, quyền ưu tiên, ưu đãi thuộc loại này có thể bị rút
trong trường hợp mà người khai thác nói trên, đã không thực hiện tốt kế hoạch
làm việc.
ĐIỀU 11. Các thỏa thuận liên doanh
1. Các hợp đồng có thể trù định các thảo thuận liên doanh
giữa người ký kết và cơ quan quyền lực, hoạt động thông qua xí nghiệp, dưới hình
thức xí nghiệp liên doanh hay chia sản lượng, cũng như mọi hình thức thỏa thuận
liên doanh khác: các thỏa thuận này cũng được hưởng sự bảo hộ về vấn đề sửa
đổi, đình chỉ hay hủy bỏ như các hợp đồng ký kết với cơ quan quyền lực.
2. Những người ký kết hợp đồng đã ký với xí nghiệp các thỏa
thuận liên doanh như vậy, có thể được hưởng những kích thích về tài chính được
trù định trong Điều 13 của phụ lục này.
3. Các bên cùng hợp tác với xí nghiệp trong một xí nghiệp
liên doanh phải đóng góp như đã quy định ở Điều 13 của phụ lục này theo prorata
( tỷ lệ) tham gia của họ vào xí nghiệp liên doanh, có tính đến các kích thích
về tài chính được trù định trong điều này.
ĐIỀU 12. Các hoạt động do xí nghiệp tiến hành
1. Các hoạt động do Xí nghiệp tiến hành trong vùng theo Điều
153, khoản 2, điểm a do Phần XI, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan
quyền lực điều chỉnh.
2. Mọi kế hoạch làm việc do xí nghiệp đề nghị cần phải có các
tài liệu chứng minh khả năng tài chính và kỷ luật của kế hoạch đó.
ĐIỀU 13. Các điều khoản tài chính của các hợp đồng
1. Khi thông qua các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan
đến các điều khoản tài chính của các hợp đồng giữa cơ quan quyền lực và các
thực thể hay cá nhân đã nêu ở Điều 153, khoản 2, điểm b và khi thương lượng các
điều khoản tài chính của một hợp đồng như thế theo đúng Phần XI và các quy tắc,
quy định và thủ tục đó, cơ quan quyền lực nhằm các mục tiêu sau đây:
a) Bảo đảm mức thu nhập tối đa tự việc sản xuất hàng hóa;
b) Bảo đảm sao cho các khoản vốn đầu tư và các kỹ thuật
thích hợp được dành cho việc thăm dò và khai thác các tài nguyên của vùng;
c) Bảo đảm sao cho các người ký kết được đối xử bình đẳng về
mặt tài chính và có những nghĩa vụ tài chính tương đương;
d) Cung cấp các kích thích trên cơ sở đồng đều và không phân
biệt đối xử để khuyến khích các người ký kết hợp đồng ký các thỏa thuận liên
doanh với xí nghiệp và các quốc gia đang phát triển hay các công dân của quốc
gia này, động viên việc chuyển giao các kỹ thuật cho xí nghiệp, cho các quốc
gia đang phát triển hay cho các công dân của quốc gia này và đào tạo nhân viên
của cơ quan quyền lực và của các quốc gia đang phát triển;
e) Cho phép xí nghiệp tiến hành khai thác các tài nguyên
đồng thời với các thực thể hay cá nhân nói ở điều 153, khoản 2, điểm b;
f) Tránh tình trạng do những kích thích tài chính dành cho
những người ký kết hợp đồng theo khoản 14 hay theo các điều khoản của hợp đồng
đã được xét lại theo đúng Điều 19 của phụ lục này, hoặc còn theo Điều 11 của
cùng phụ lục này liên quan đến các xí nghiệp liên doanh mà các người ký kết hợp
đồng được trợ cấp đến mức họ có được lợi thế một cách giả tạo trong cuộc cạnh
tranh với những người khai thác các vỉa quặng ở đất liền.
2. Thu một khoản lệ phí là 500.000 đô la Mỹ theo một đơn yêu
cầu để đảm bảo các khoản chi hành chính có liên quan đến việc nghiên cứu các
đơn yêu cầu chấp thuân các kế hoạch làm việc dưới hình thức hợp đồng. Số tiền
của khoản lệ phí được hội đồng xét lại từng thời kỳ, để bảo đảm được các khoản
chi hành chính cần thiết. Nếu các khoản chi của cơ quan quyền lực để nghiên cứu
một đơn yêu cầu thấp hơn số tiền đã ấn định, thì cơ quan quyền lực hoàn lại
khoản chênh lệch cho người yêu cầu.
3. Bên ký kết hợp đồng nộp một khoản thuế hằng năm cố định làm
1.000.000 đô la Mỹ kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Nếu thời gian đã được chuẩn
y để bắt đầu việc sản xuất hàng hóa bị lùi lại do co sự chậm trễ trong việc cấp
phát giấy phép sản xuất theo đúng Điều 151, thì bên ký kết được miễn một phần
khoản thuế hằng năm cố định tương đương với thời hạn kéo dài. Ngay khi bắt đầu
sản xuất hàng hóa, người ký kết hợp đồng phải nộp hoặc khoản tiền thuế đánh trên
sản lượng hoặc khoản thuế hàng năm cố định, nếu khoản thuế này cao hơn.
4. Trong thời hạn một năm kể từ khi bắt đầu việc sản xuất
hàng hóa, theo đúng khoản 3, người ký kết hợp đồng lựa chọn các hành thức sau
đây để đóng góp tài chính cho cơ quan quyền lực:
a) Hoặc chỉ nộp một khoản tiền thuế đánh trên sản lượng;
b) Hoặc chỉ nộp một khoản tiền thuế đánh trên sản lượng và
nộp một phần các thu nhập thuần túy của mình.
5. a) Nếu bên ký kết lựa chọn viêc đóng góp tài chính của mình
cho cơ quan quyền lực bằng cách chỉ nộp một khoản tiền thuế đánh trên sản
lượng, thì số tiền thuế này được tính bằng một tỉ lệ phần trăn giá trị hành hóa
của các kim loại tinh chế từ các khối đa kim được khai thác trong khu vực nói
trong hợp đồng, tỷ lệ phần trăm được quy định như sau:
i. 5% từ năm sản xuất hàng hóa thứ nhất đến năm thứ mười;
ii. 12% từ năm sản xuất thứ mười một đến khi kết thúc thời
kỳ sản xuất hàng hóa.
b) Giá trị hàng hóa của các kim loại tinh chế được tính toán
bằng cách nhân số lượng kim loại tinh chế từ các khối đa kim được khai thác
trong khu vực nói trong hợp đồng với giá trung bình của các kim loại này trong
tài khóa được xem xét, được xác định theo đúng các khoản 7 và 8.
6. Nếu bên ký kết chọn việc đóng góp tài chính cho cơ quan
quyền lực bằng cách nộp một khoản tiền thuế đánh trên sản lượng và nộp một phần
thu nhập thuần túy của mình, thì tổng số tiền của những khoản đóng góp này được
xác định như sau:
i. 2% cho thời kỳ sản xuất hàng hóa đầu tiên. ii. 4% cho
thời kỳ sản xuất hàng hóa thứ hai.
Trong thời kỳ sản xuất hàng hóa thứ hai, như đã xác định ở
điểm d, nếu hiệu suất đầu tư trong một tài khóa nào đó, theo định nghĩa ghi ở
điểm m, dưới 15%, do phải nộp khoản tiền thuế đánh trên sản lượng với tỷ lệ 4%,
thì tỷ lệ tiền thuế đánh trên sản lượng được ấn định là 2% trong tài khóa này;
b) Giá trị hàng hóa của các kim loại tinh chế được tính toán
bằng cách nhân số lượng kim loại tinh chế từ các khối đa kim được khai thác
trong khu vực nói trong hợp đồng với giá trung bình của các kim loại này, được
xác định trong tài khóa được xem xét, theo đúng các khoản 7 và 8;
c) i. Phần các thu nhập thuộc về cơ quan quyền lực được
trích trong phần thu nhập thuần túy của người ký kết hợp đồng có thể khấu trừ
vào các hoạt động khai thác tài nguyên của khu vực theo hợp đồng; sau đây gọi
là thu nhập thuần túy có thể khấu vào;
ii. Phần thu nhập thuần túy có thể khấu vào thuộc về cơ quan
quyền lực được xác định theo barem lũy tiến sau:
Phần thu nhập thuần túy có thể
khấu vào
|
Phần thu nhập thuần túy có thể
khấu vào thuộc về Cơ quan quyền lực
|
Thời kì sản xuất hàn hóa thứ nhât
|
Thời kì sản xuất hàn hóa thứ hai
|
Phần trích trong trường hợp hiệu quả vốn đầu tư cao hơn 0%
nhưng dưới 10%
|
35%
|
40%
|
Phần trích trong trường hợp hiệu quả vốn đầu tư bằng hoặc
cao hơn 10% nhưng dưới 20%
|
42.5%
|
50%
|
Phần trích trong trường hợp hiệu quả vốn đầu tư bằng hoặc
cao hơn 20%
|
50%
|
70%
|
d) i. Thời kì sản xuất hàng hóa đầu tiên nói ở các điểm a và
c bắt đầu vào tài khóa đầu tiên của thời kì sản xuất hàng hóa và kết thúc vào
tài khóa khi mà các chi phí phục vụ khai thác (despeenses de mise en valeur)
của người kí kết hợp đồng đã được điều chỉnh, có tính đến khoản tiền lãi thuộc
phần chưa khấu hao của các khoản chi phí trước đây, được khấu hao hoàn toàn nhờ
vào số dư thực tế như được nói rõ sau đây: đối với tài khóa đầu tiên phát sinh ra
các khoản chi phí phục vụ khai thác, những khoản chi phí phục vụ khai thác
không được khấu hao là những khoản chi phí phục vụ khai thác đã khấu trừ đi số
dư thực tế trong tài khóa được xem xét. Đối với mỗi tài khóa tiếp sau, các
khoản chi phí phục vụ khai thác không được khấu hao, được tính bằng cách cộng
thêm vào các khoản chi phí phục vụ khai thác không được khấu hao cuối tài khóa
trước, cùng với một tài khoản lãi hàng năm là 10%, các khoản chi phí phục vụ
khai thác trong tài khóa hiện hành và bằng cách lấy tổng số tiền này trừ đi số
dư thực tế của người kí kết hợp đồng cho tài khóa đó. Tài khóa mà các chi phí
phục vụ khai thác cộng thêm tiền lãi thuộc phần không được khấu hao của các
khoản chi phí này, được khấu hao hoàn toàn là tài khóa đầu tiên mà các chi phí
phục vụ khai thác bằng không; số dư thực tế của người kí kết hợp đồng đối với
mọi tài khóa là tổng thu nhập của họ trừ đi các phí tổn về khai thác và các
khoản phải nộp cho cơ quan quyền lực theo đúng điểm c.
ii. Thời kì sản xuất hàng hóa thứ hai bắt đầu vào tài khóa
được tính từ khi kết thức thời kì thứ nhất và kéo dài cho đến khi kết thúc hợp
đồng;
e) Thuật ngữ “thu nhập thuần túy có thể khấu vào” (recettes
nettes imputables) nghĩa là các thu nhập thuần túy của người kí kết hợp đồng
nhân với tỉ số giữa các khoản chi phí phục vụ khai thác gắn với việc khai thác khoáng
sản và tổng số các chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng. Khi mà
các hoạt động của người kí kết hợp đồng nhằm vào việc khai thác và vận chuyển
các khối đa kim, cũng như vào việc sản xuất hàng hóa, chủ yếu là ba kim loại
tinh chất như coban, đồng, kền, thì số tiền thu nhập thuần túy có thể khấu vào
của người kí kết hợp đồng không thể dưới 25% thu nhập thuần túy của người đó. Với
điều kiện phải tuần thủ các thể thức đã nêu ở điểm n, trong tất cả các trường
hợp khác, kể cả trường hợp mà các hoạt động của người kí kết hợp đồng nhằm vào
việc khai thác, vận chuyển các khối đa kim và vào việc sản xuất hàng hóa bốn kim
loại tinh chế như coban, đồng, mangan và kền, cơ quan quyền lực có thể định ra
trong các quy tắc, quy định và thủ tục của mình các tỉ lệ tối thiểu thích hợp
bằng cách áp dụng cũng các công thức tỉ lệ như khi ấn định tỉ lệ tối thiểu 25%
được quy định trong trường hợp của ba kim loại;
f) Thuật ngữ “các thu nhập thuần túy của người kí kết hợp
đồng” là tổng thu nhập của người kí kết hợp đồng, đã trừ các phí tổn về
khai thác và khoản dùng để khấu hao các chi phí phục vụ khai thác của người đó
theo các thể thức đã được trù định ở điểm j;
g) i. Nếu các hoạt động của người kí kết hợp đồng nhằm vào
việc khai thác, vận chuyển các khối đa kim và sản xuất hàng hóa các kim loại
tinh thể, thuật ngữ “tổng thu nhập của người ký kết hợp đồng” là tổng số
tiền thu nhập bán các kim loại tinh chế và mọi khoản thu khác được coi như có
thể tính một cách hợp lý vào các nghiệp vụ đươc thực hiện theo hợp đồng, theo
đúng các quy tắc, quy định và thử tục tài chính của cơ quan quyền lực;
ii. Trong tất cả các trường hợp, ngoài những trường hợp đã
nói rõ ở điểm g,i và điểm n,iii, thuật ngữ “tổng thu nhập của người kí kết hợp
đồng” là tổng số tiền thu nhập của việc bán các kim loại sơ chế từ khối đa kim
khai thác trong khu vực nói trong hợp đồng và tất cả các khoản thu khác được
coi như có thể tính một cách hợp lý vào các nghiệp vụ thực hiện theo hợp đồng,
theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục tài chính của cơ quan quyền lực;
h) Thuật ngữ “chi phí phục vụ khai thác của người kí kết
hợp đồng” nghĩa là:
i. Tất cả các khoản chi trước khi bắt đầu việc sản xuất hàng
hóa, trực tiếp gắn với sự phát triển khả năng sản xuất của khu vực nói trong
hợp đồng và với các hoạt động có liên quan, dưới danh nghĩa các nghiệp vụ trù
định trong hợp đồng trong mọi trường hợp khác, ngoài những trường hợp được định
rõ ở điểm n, theo đúng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung, bao gồm cả
những chi phí về thiết bị, mua sắm công cụ, tàu thuyền, thiết bị chế biến, các
chi phí liên quan đến các công trình xây dựng, mua sắm nhà cửa, đất đai và tất
cả các chi phí liên quan đến việc xây dựng đường sá, thăm dò và khảo sát khu
vực nói trong hợp đồng, đến việc nghiên cứu – phát triển, đến tiền lãi, tiền
thuê bất thường, các giấy phép, các khoản tiền thuế; và
ii. Các chi phí giống như chi phí đã nêu ở điểm n,i thực
hiện sau khi bắt đầu việc sản xuất hàng hóa để có thể thực hiện kế hoạch làm
việc, không tính đến các khoản thuộc về phí tổn khai thác;
i) Các khoản thu từ việc chuyển nhượng các trang thiết bị và
giá trị hàng hóa của các trang thiết bị không còn cần thiết nữa đối với các
nghiệp vụ được trù định trong hợp đồng mà không đem bán, được trù khỏi các chi
phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng trong tài khóa được xem xét. Khi
các khoản phải trừ này vượt quá số tiền chi phí phục vụ khai thác, thì số dư
được cộng thêm vào tổng thu nhập;
j) Các chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng
trước khi bắt đầu sản xuất hàng hóa nói ở điểm h,i. và điểm n,i. hàng năm được
khấu trừ làm mười đợt bằng nhau kể từ ngày bắt đầu sản xuất hàng hóa. Các chi
phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng nói ở điểm h,ii và điểm n,iv
sau khi bắt đầu sản xuất hàng hóa, hàng năm được khấu trừ thành mười đợt bằng
nhau hay bằng một số đợt bằng nhau hàng năm ít hơn, sao cho các chi phí này
hoàn toàn được khấu trừ khi hợp đồng hết hạn;
k) Thuật ngữ “phí tổn khai thác của người kí kết hợp đồng”
nghĩa là tất cả các khoản chi phí đã phát sinh sau khí bắt đầu việc sản xuất
hàng hóa để khai thác khả năng sản xuất theo khu vực theo hợp đồng và chi cho
các hoạt động có liên quan theo danh nghĩa các nghiệp vụ được trù định trong
hợp đồng, theo đúng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung, nhất là kể cả
khoản tiền thuế đánh trên sản lượng hay khoản tiền thuế cố định hàng năm, nếu
khoản tiền thuế này cao hơn, các chi phí liên quan đến tiền lương, tiền công và
các khoản phụ cấp liên quan, các công cụ, dịch vụ, vận tải, chế biết và tiêu
thụ, tiền lãi, công trình công cộng, việc giữ gìn môi trường biển, đến chi phí
quản lý chung và chi phí hành chính trực tiếp gắn liền với các nghiệp vụ được
trù định trong hợp đồng, cũng như bất kì thiếu hụt nào trong việc khai thác
được chuyển sổ theo một trong hai hướng sau đây: Sự thiếu hụt trong việc khai
thác có thể được chuyển sổ hai lần liên tiếp, từ tài khóa này sang tài khóa
khác, trừ hai năm cuối cùng của hợp đồng, thì có thể được chuyển trở lại vào hai
tài khóa trước đó;
l) Nếu người kí kết hợp đồng bảo đảm chủ yếu việc khai thác,
vận chuyển các khối đa kim và sản xuất hàng hóa các kim loại đã tinh chế và sơ
chế thì thuật ngữ “chi phí phục vụ khai thác gắn với việc khai thác khoáng
sản” nghĩa là phần chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng trực
tiếp gắn với việc khai thác các tài nguyên của khu vực nói trong hợp đồng, theo
đúng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung và các quy tắc quản lý tài
chính, cũng như các quy tắc, quy định và thủ tục tài chính của cơ quan quyền
lực, kể cả số lệ phí phải nộp cho việc nghiên cứu đơn xin ký hợp đồng, số tiền
thuế cố định hàng năm và, nếu có, cả các chi phí đã phát sinh về khảo sát và
thăm dò khu vực nói trong hợp đồng, và một phần của các chi phí nghiên cứu –
phát triển;
m) Thuật ngữ “hiệu suất vốn đầu tư” đối với một tài
khóa nào đó, là tỉ số giữa thu nhập thuần túy có thể khấu vào của tài khóa này
và các chi phí phục vụ khai thác gắn liền với việc khai thác khoáng sản. Trong
việc tính toán tỉ số này, các chi phí phục vụ khai thác gắn liền với việc khai
thác khoáng sản là các chi phí được dùng để mua sắm công cụ mới hay để thay thế
công cụ được sử dụng vào các hoạt động khai thác khoáng sản, đã trừ đi giá ban
đầu của công cụ được thay thế;
n) Nếu người kí kết hợp đồng chỉ khai thác khoáng sản thì:
i. Thuật ngữ “thu nhập thuần túy có thể khấu vào” có nghĩa
là tổng thu nhập thuần túy của người kí kết hợp đồng;
ii. Thuật ngữ “thu nhập thuần túy của người kí kết hợp đồng”
có nghĩa như đã được ghi trong điểm f;
iii. Thuật ngữ “tổng thu nhập của người kí kết hợp đồng” có
nghĩa là toàn bộ thu nhập bán các khối đa kim và tất cả các khoản thu khác được
coi như có thể tính một cách hợp lý vào các nghiệp vụ được thực hiện theo danh
nghĩa của hợp đồng, theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục tài chính của cơ
quan quyền lực;
iv. Thuật ngữ “chi phí phục vụ khai thác của người kí kết
hợp đồng” có nghĩa là tất cả các chi phí đã phát sinh trước khi bắt đầu việc
sản xuất hàng hóa như đã được chỉ rõ tại điểm h,i. và tất cả các chi phí đã
phát sinh sau khi bắt đầu sản xuất hàng hóa như đã được chỉ rõ ở điểm h,ii.;
những chi phí này trực tiếp gắn với việc khai thác các tài nguyên của khu vực
nói trong hợp đồng được tính toán theo đúng các quy tắc kế toán được chấp nhận
chung;
v. Thuật ngữ “phí tổn khai thác của người kí kết hợp đồng” có
nghĩa là những tổn phí khai thác của người kí kết hợp đồng đã được nêu ở điểm
k, trực tiếp gắn liền với việc khai thác các tài nguyên của khu vực nói trong
hợp đồng được tính toán theo đúng các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung;
vi. Thuật ngữ “hiệu suất vốn đầu tư” của một tài khóa nào đó
là tỷ số giữa những khoản thu nhập thuần túy tài khóa này và những chi phí phục
vụ khai thác của người kí kết hợp đồng. Trong việc tính tỉ số này, các chi phí
phục vụ khai thác là các chi phí đã phát sinh về mua sắm công vụ mới hay về
thay thế công cụ, đã trừ đi giá ban đầu của công cụ được thay thế;
o) Việc hoàn thành các chi phí liên quan đến việc chi trả
lãi của người kí kết hợp đồng đã nói ở các điểm h, k, l và n được phép thực
hiện trong phạm vi mà ở mọi trường hợp, Cơ quan quyền lực, theo đúng Điều 4,
khoản 1 của Phụ lục này, thừa nhận rằng tỉ số giữa vốn công ty và nợ cũng như
các lãi suất là hợp lý, có tính đến các thủ tục thương mại hiện hành;
p) Các chi phí đã nói trong đoạn này không bao gồm các món
tiền đã trả dưới danh nghĩa thuế đánh vào các công ty hay các lệ phí tương tự,
do các quốc gia thu vào các nghiệp vụ của người kí hợp đồng.
7. a) Thuật ngữ “kim loại tinh chế” đã được dùng ở khoản 5
và khoản 6 có nghĩa là những kim loại ở dưới dạng thông dụng nhất thường được
trao đổi trên thị trường quốc tế cuối cùng. Để thực hiện điểm này, cơ quan
quyền lực phải chỉ rõ trong các quy tắc, quy định và thủ tục tài chính các thị
trường quốc tế cuối cùng thích hợp. Đối với các kim loại không được trao đổi
trên các thị trường quốc tế này, thì thuật ngữ “kim loại tinh chế” có nghĩa là
những kim loại dưới dạng thông dụng nhất thường được trao đổi trong khuôn khổ
các giao dịch thông thường phù hợp với các nguyên tắc kinh doanh độc lập.
b) Nếu Cơ quan quyền lực không thể xác định bằng một cách
nào khác số lượng kim loại tinh chế được sản xuất ra từ những khối đa kim khai
thác trong khu vực theo hợp đồng nói ở khoản 5, điểm b và ở khoản 6, điểm b thì
số lượng này được xác định theo hàm lượng kim loại của các khối đó theo tỉ suất
thu hồi sau khi đã tinh chế và các yếu tố thích hợp khác, theo đúng các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các nguyên tắc kế toán được
thừa nhận chung.
8. Nếu một thị trường quốc tế cuối cùng đưa ra một cơ chế
thích đáng để định giá các kim loại đã được tinh chế, các khối đa kim và các
kim loại sơ chế từ các khối quặng, thì Cơ quan quyền lực sử dụng giá trung bình
ở trên thị trường này. Trong tất cả các trường hợp khác, Cơ quan quyền lực, sau
khi tham khảo ý kiến của người kí kết hợp đồng, định ra một giá công bằng cho những
sản phẩm này theo đúng khoản 9.
9. a) Tất cả mọi phí tổn, mọi khoản chi, khoản thu, cũng như
mọi giá cả và giá trị nói ở điều này được tính theo các giao dịch phù hợp với
những nguyên tắc ở thị trường tự do hoặc kinh doanh độc lập. Nếu không như vậy,
thì Cơ quan quyền lực sẽ xác định, sau khi đã tham khảo ý kiến của người kí kết
hợp đồng, coi như trong các giao dịch phù hợp với các nguyên tắc của thị trường
tự do hoặc kinh doanh, có tính đến các giao dịch tương ứng ở trên các thị
trường khác;
b) Để bảo đảm việc áp dụng và tôn trọng khoản này, Cơ quan
quyền lực dựa theo các nguyên tắc đã được thông quan và dựa vào việc giải thích
đối với các giao dịch phù hợp với nguyên tắc kinh doanh độc lập của Ủy bản
thuộc Liên hợp quốc về các xí nghiệp xuyên quốc gia (tranonationales) của nhóm
chuyên gia về các Công ước thuế khóa giữa các nước phát triển và các nước đang
phát triển và của các tổ chức quốc tế khác, và Cơ quan quyền lực quy định trong
các quy tắc, quy định và các thủ tục khác các quy tắc và thủ tục kế toán thống
nhất, có thể chấp nhận được trong phạm vi quốc tế, cũng như các phương pháp mà người
kí kết hợp đồng sẽ phải áp dụng để lựa chọn các chuyên gia kế toán độc lập đẻ
có thể được Cơ quan quyền lực chấp nhân, để kiểm tra các tài khoản theo đúng
các nguyên tắc, quy định và thủ tục này.
10. Người kí kết hợp đồng cung cấp cho các chuyên gia kế
toán theo đúng các nguyên tắc, quy định và thủ tục tài chính của Cơ quan quyền
lực, những số liệu tài chính cần thiết cho phép xác minh rằng điều này đã được
tôn trọng.
11. Tất cả mọi phí tổn, mọi khoản chi, khoản thu cũng như
mọi giá cả và giá trị đã được nêu ở điều này, được xác định theo đúng các
nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung, các quy tắc, quy định, thủ tục tài
chính của Cơ quan quyền lực.
12. Những số tiền phải nộp cho Cơ quan quyền lực theo các
khoản 5 và 6 phải được thanh toán bằng đồng tiền có thể sử dụng tự do hay bằng
các đồng tiền được chuyển đổi tự do và đang được sử dụng trên những thị trường
hối đoái chính hay, theo sự lựa chọn của người kí kết hợp đồng, dưới hình thức
tương đương bằng kim loại đã tinh chế, được tính trên cơ sở của giá trị hàng
hóa.
Giá trị hàng hóa được xác định theo đúng khoản 5, điểm b,
những đồng tiến có thể sử dụng tự do và những đồng tiền mà người ta có thể
chuyển đổi tự do và đang sử dụng trên các thị trường hối đoái chính được xác
định trong các quy tắc, quy định, thủ tục của Cơ quan quyền lực theo đúng các
tập quán tiền tệ quốc tế thông dụng.
13. Tất cả các nghĩa vụ tài chính của người kí kết hợp đồng đối
với Cơ quan quyền lực, cũng như tất cả các khoản tiền phải nộp, phí tổn, chi
phí, thu nhập nói ở điều này được điều chỉnh bằng giá trị không đổi, lấy theo
một năm quy chiếu.
14. Nhằm phục vụ các mục tiêu đã nêu ở khoản 1, dựa theo các
kiến nghị của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế và của Ủy ban Pháp lý và kĩ thuật, Cơ
quan quyền lực có thể thông qua các quy tắc, quy định và thủ tục trú định việc
dành cho các bên kí kết hợp đồng những kích thích trên một cơ sở thống nhất và
không phân biệt đối xử.
15. Khi có tranh chấp giữa Cơ quan quyển lực và một bên kí
kết hợp đồng có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các điều khoản tài
chính cảu một hợp đồng, bên này hay bên kia có thể đưa vụ tranh chấp ra một trọng
tài thương mại có quyền lực bắt buộc, trừ khi hai bên thỏa thuận giải quyết
tranh chấp bằng các phương pháp khác, theo đúng Điều 188, khoản 2.
ĐIỀU 14. Việc thông báo các số liệu
Theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền
lực và tùy theo các điều kiện, thể thức của kế hoạch làm việc, người khai thác
thông báo cho cơ quan quyền lực, theo những khoảng thời gian do cơ quan quyền
lực quy định, tất cả các số liệu vừa cần thiết, vừa thích hợp, nhằm để cho các
cơ quan chính của cơ quan quyền lực thi hành có hiệu quả các quyền hạn và chức
năng của họ có liên quan đến khu vực mà kế hoạch làm việc nhắm vào.
Các số liệu được thông báo về khu vực mà kế hoạch làm việc
nhằm vào và được coi là sở hữu công nghiệp chỉ có thể được sử dụng vào các mục
đích nói trong điều này. Các số liệu cần thiết cho cơ quan quyền lực trong việc
soạn thảo các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc bảo vệ môi trường
biển và đến sự an toàn, ngoài các số liệu liên quan đến kiểu trang thiết bị,
thì không được coi là sở hữu công nghiệp.
Cơ quan quyền lực không được thông báo cho xí nghiệp hay bất
kì ai ở bên ngoài cơ quan quyền lực các số liệu mà những người thăm dò, những
người yêu cầu kí hợp đồng và những người kí kết hợp đồng cung cấp cho cơ quan
quyền lực và được coi là sở hữu công nghiệp, nhưng những số liệu liên quan đến
khu vực dành riền có thể được thông báo cho xí nghiệp. Xí nghiệp không được
thông báo cho cơ quan quyền lực hay cho bất kì ai ở bên ngoài cơ quan quyền lực
các số liệu cùng loại đó đã được cung cấp cho xí nghiệp theo cách nói trên.
ĐIỀU 15. Các chương trình đào tạo
Người kí kết hợp đồng vạch ra các chương trình thực tiễn đào
tạo nhân viên của cơ quan quyền lực và của các quốc gia đang phát triển, nhất
là trù định sự tham gia của các nhân viên nói trên vào tất cả các hoạt động
tiến hành trong vùng thuộc đối tượng của hợp đồng, theo đúng Điều 144, khoản 2.
ĐIỀU 16. Độc quyền về thăm dò và khai thác
Cơ quan quyền lực, theo Phần XI và các quy tắc, quy định và
thủ tục của mình cho người khai thác đặc quyền thăm dò, khai thác một loại tài nguyên
nhất định trong khu vực và kế hoạch làm việc nhằm vào và luôn luôn chú ý để
không cho một thực thể hay một cá nhân nào khác tiến hành trong cùng khu vực
nói trên, các hoạt động nhằm vào một loại tài nguyên khác, một cách có thể gây
trở ngại cho các hoạt động cho người khai thác. Người khai thác được bảo đảm
danh nghĩa theo đúng Điểm 153, khoản 6.
ĐIỀU 17. Quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực
1. Cơ quan quyền lực thông qua và áp dụng một cách thống
nhất các quy định, quy tắc và thủ tục theo Điều 160, khoản 2, điểm f,ii và Điều
162, khoản 2, điểm o,ii để thi hành các chức trách của mình như đã được nêu ở
phần XI, nhất là về các vấn đề sau:
a. Các thủ tục hành chánh liên quan đến việc khảo sát, thăm
dò và khai thác trong vùng;
b. Các nghiệp vụ;
i. Diện tích của khu vực;
ii. Thời hạn của các nghiệp vụ
iii. Các quy phạm hiệu lực, kế cả những bảo đảm đã được trù
định ở điều 4, khoản 6, điểm c của phụ lục này;
iv. Các loại tài nguyên;
v. Sự từ bỏ các khu vực;
vi. Các báo cáo về tiến trình của công việc;
vii. Thông báo các số liệu;
viii. Kiểm tra và kiểm soát các nghiệp vụ;
ix. Các biện pháp được thi hành để không làm cản trở đến các
hoạt động khác trong môi trường biển;
x. Việc một người kí kết hợp đồng chuyển nhượng các quyền và
nghĩa vụ của mình;
xi. Các thủ tục liên quan đến việc chuyển giao các kĩ thuật
cho các quốc gia đang phát triển theo đúng Điều 144, cũng như đến việc tham gia
trực tiếp của các quốc gia này;
xii. Quy phạm và tập quán khai thác khoáng sản, kể cả những
quy phạm và tập quán có quan hệ đến an toàn của các nghiệp vụ, đến việc bảo tồn
các tài nguyên và việc bảo vệ môi trường biển;
xiii. Xác định việc sản xuất hàng hóa;
xiv. Các tiêu chuẩn về tư cách của các người yêu cầu.
c. Những vấn đề tài chính:
i. Soạn thảo các quy tắc thống nhất và không phân biệt đối
xử về việc tính toán giá cả và về kế toán và biện pháp lực chọn các nhân viên
kiểm tra;
ii. Phân chia các khoản thu được từ các nghiệp vụ;
iii. Các kích thích nêu ở điều 13 của khu vực này;
d. Thi hành các quyết định theo Điều 151, khoản 10 và Điều
164, khoản 2, điểm d;
2. Các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến những vấn
đề sau đây cần đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn khách quan được nêu dưới đây:
a. Diện tích của khu vực:
Cơ quan quyền lực quy định diện tích của các khu vực thăm dò
có thể đến mức lớn gấp đôi diện tích các khu vực khai thác, để cho việc thăm dò
có hiệu suất hơn. Diện tích các khu vực khai thác được tính toán để đáp ứng
được các đòi hỏi của Điều 8 của phụ lục này, liên quan đến việc dành riêng các
khu vực, cũng như đáp ứng các đòi hỏi về sản xuất đã được trù định; các đòi hỏi
này phải phù hợp với điều 151 và các điều khoản của hợp đồng, có tính đến tình
trạng các kĩ thuật sẵn có trong lĩnh vực khai thác khoáng sản ở đáy biển và các
đặc điểm tự nhiên thích đáng của khu vực. Diện tích của các khu vực không thể
nhỏ hơn hay lớn hơn diện tích cần thiết để đáp ứng mục tiêu này.
b. Thời gian của các nghiệp vụ:
i. Thời gian khảo sát là không giới hạn;
ii. Thời gian của giai đoạn thăm dò phải đủ để cho phép tiến
hành công tác nghiên cứu kĩ càng đối với khu vực được nhắm đến, công tác nghiên
cứu và xây dựng phương tiện khai thác đối với khu vực này, việc lập các kế
hoạch, việc xây dựng các nhà máy chế biến có công suất nhỏ và vừa để tiến hành
việc thử các hệ thong khai thác và chế biến kim loại.
iii. Thời gian khai thác phải tùy thuộc vào thời gian hoạt
động kinh tế của dự án khai thác mỏ, có tính đến các yếu tố như: vỉa quặng bị
cạn, tuổi thọ của phương tiện khai thác, các thiết bị chế biến và khả năng đứng
vững về thương mại. Thời gian của giai đoạn khai thác phải đủ để cho phép tiến
hành việc khai thác hàng hóa các khoáng sản của khu vực và cần phải bao gồm một
thời hạn hợp lý để xây dựng các thiết bị khai thác mỏ và chế biến trên quy mô
thương mại, thời hạn mà trong đó chưa thể đòi hỏi bất cứ một sự sản xuất hàng
hóa nào. Tuy nhiên, toàn bộ thời gian khai thác cũng cần phải tương đối ngắn để
cho cơ quan quyền lực có thể sửa đổi các điều kiện và thể thức của kế hoạch làm
việc vào lúc mà cơ quan quyền lực nghiên cứu việc kí lại kế hoạch làm việc đó,
theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục mà cơ quan quyền lực đã thông qua
sau khi đã chuẩn y kế hoạch làm việc;
c. Các quy phạm về hiệu lực:
Trong giai đoạn thăm dò, cơ quan quyền lực đòi hỏi người
khai thác phải tiến hành chỉ tiêu theo định kì tương ứng hợp lý với diện tích
khu vực mà kế hoạch làm việc nhằm vào và với các khoản chi phí cần phải chi của
một người khai thác trung thực dự định tiến hành việc sản xuất hàng hóa ở khu
vực đó, trong những thời hạn do cơ quan quyền lực ấn đinh. Không được ấn định
những chi phí cần thiết trên đây ở mức độ gây nản lòng những người khai thác sử
dụng những kĩ thuật rẻ tiền hơn các kĩ thuật thường dùng. Cơ quan quyền lực ấn
định một thời hạn tối đa để bắt đầu việc sản xuất hàng hóa, sau khi kết thúc
giai đoạn thăm dò và những hoạt động khai thác đầu tiên. Để xác định thời hạn
này, Cơ quan quyền lực cần tính đến tình hình là việc xây dựng các thiết bị
khai thác và chế biến quan trọng chỉ có thế được tiến hành khi giai đoạn thăm
dò đã kết thức và giai đoạn khai thác đã bắt đầu. Do đó, thời hạn được dành để
chuẩn bị bắt đầu sản xuất hàng hóa của một khu vực cần phải được ấn định có
tính đến thời gian cần thiết để xây dựng các thiết bị này sau giai đoạn thăm
dò; hơn nữa, nên trù định các thời hạn hợp lý cho những chậm trễ không thể
tránh được trong chương trình xây dựng. Một khi đã đạt tới gia đoạn sản xuất
hàng hóa, cơ quan quyền lực yêu cầu người khai thác tiếp tục việc sản xuất hàng
hóa này trong suốt thời gian của kế hoạch làm việc mà vẫn ở trong phạm vi các
giới hạn hợp lý và vẫn chú ý tới tất cả các yếu tố tương ứng.
d. Các loại tài nguyên
Để xác định các loại tài nguyên mà đối với chúng các kế
hoạch làm việc có thể được chuẩn y, ngoài các yếu tố khác, cơ quan quyền lực
dựa vào các yếu tố sau đây:
i. Việc những tài nguyên khác nhau cần đến biện pháp khai
thác giống nhau;
ii. Việc các tài nguyên khác nhau có thể được nhiều người khai
thác đồng thời trong cùng một khu vực mà không gây quá nhiều trở ngại cho nhau;
Điều quy định này không cản trở cơ quan quyền lực chuẩn y
một kế hoạch làm việc đối với nhiều loại tài nguyên trong cùng khu vực;
e. Từ bỏ các khu vực:
Người khai thác vào bất kì lúc nào cũng có thể từ bỏ tất cả
hay bộ phận các quyền của mình đối với khu vực do kế hoạch làm việc nhằm vào mà
không bị phạt;
f. Bảo vệ môi trường biển:
Các quy tắc, quy định và thủ tục được định ra nhằm bảo vệ có
hiệu quả môi trường biển, trước những tác hại trực tiếp nảy sinh từ các hoạt
động tiến hành trong vùng, hay từ việc tinh chế các khoáng sản lấy được từ một
địa điểm khai thác trên một con tàu ở ngay trên địa điểm khai thác khoáng sản
đó, có tính đến mức độ trong đó các tác hại như thế có thể trực tiếp do các hoạt
động khoan, nạo vét, khoan lấy lõi đất và đào, cũng như việc tháo đổ, nhận chìm
và vứt bỏ trong môi trường biển các chất cặn bã hay nước thải gây ra.
g. Sản xuất hàng hóa
Việc sản xuất hàng hóa được coi như đã bắt đầu khi một người
khai thác đã thực hiện các hoạt động khai thác liên tục và ở trên quy mô lớn,
sản xuất được một số lượng vật phẩm quan trọng, đủ để chứng tỏ rõ rang mục tiêu
chủ yếu của các hoạt động đó là một việc sản xuất trên quy mô lớn và không phải
là một việc sản xuất nhằm để thu thập thông tin, tiến hành các công việc phân
tích hay thử nghiệm các công cụ hay thiết bị
ĐIỀU 18. Phạt
Các quyền theo hợp đồng của người kí kết hợp đồng chỉ có thể
bị đình chỉ hay chấm dứt trong các trường hợp sau:
Khi mà mặc dù đã có những lời cảnh cáo của cơ quan quyền
lực, người kí hợp đồng vẫn tiến hành các hoạt động của mình theo cách dẫn đến
những vi phạm nghiêm trọng, kéo dài và cố ý, đối với các điều khoản cơ bản của
hợp đồng, đối với các quy tắc, quy định và thủ tục của cơ quan quyền lực và đối
với phần XI, hoặc
Khi người kí kết hợp đồng không tuân theo một quyết định dứt
khoát và bắt buộc do cơ quan giải quyết các tranh chấp đề ra cho mình.
Trong những trường hợp vi phạm các điều khoản của hợp đồng
ngoài các trường hợp nói ở khoản 1, điểm a, hoặc thay cho việc tuyên bố đình chỉ
hay hủy bỏ hợp đồng, trong các trường hợp nói ở khoản 1, điểm a. Cơ quan quyền
lực có thể bắt người kí hợp đồng chịu những khoản tiền phạt theo tỉ lệ về mức độ
nghiêm trọng của việc vi phạm.
Trừ trường hợp các mệnh lệnh được đưa ra trong tình hình
khẩn cấp theo Điều 162, khoản 2, điểm w, Cơ quan quyền lực chưa thể thi hành
một quyết định liên quan đến các khoản tiền phạt hoặc đến việc đình chỉ hay hủy
bỏ hợp đồng, chừng nào người kí hợp đồng chưa có khả năng hợp lý để khai thác
hết những căn cứ pháp lý mà mình có, theo đúng Mục 5 của Phần XI.
ĐIỀU 19. Xét lại hợp đồng
Theo ý kiến của một trong các bên, khi xảy ra hay có thể xảy
ra các hoàn cảnh có tác dụng làm cho một hợp đồng trở nên không công bằng, hoặc
gây tổn hại, hoặc ngăn cản việc thực hiện các mục tiêu được đề ra trong hợp
đồng, hay trong phần XI, các bên tiến hành các cuộc thương lượng nhằm xét lại
hợp đồng theo hoàn cảnh mới
Một hợp đồng được kí kết theo đúng Điều 153, khoản 3, chỉ có
thể được xét lại với sự thỏa thuận của các bên kí kết.
ĐIỀU 20. Chuyền giao các quyền và nghĩa vụ
Các quyền và các nghĩa vụ nảy sinh từ một hợp đồng chỉ được
chuyển giao với sự thỏa thuận của Cơ quan quyền lực và theo đúng các quy tắc,
quy định, thủ tục của nó. Nếu không có lý do đầy đủ, Cơ quan quyền lực không
được từ chối việc chấp thuận sự chuyển giao, nếu xét về mọi phương diện, người
có thể được giao là một người yêu cầu có tư cách và bảo đảm tất cả các nghĩa vụ
của người giao, và nếu việc chuyển giao không giao cho người được giao một kế
hoạch làm việc mà việc chuẩn y đã bị cấm theo Điều 6, khoản 3, điểm c của phụ
lục này.
ĐIỀU 21. Luật áp dụng
Hợp đồng thuộc sự điều chỉnh của các điều khoản của hợp
đồng, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, Phần XI, cũng như
các quy tắc khác của pháp luật quốc tế không mâu thuẫn với Công ước.
Mọi quyết định cuối cùng do một tòa án có thẩm quyền theo
Công ước đưa ra về quyền và các nghĩa vụ của Cơ quan quyền lực và của người kí
hợp đồng có hiệu lực trên lãnh thổ của bất kì quốc gia thành viên nào.
Một quốc gia thành viên không thể bắt một người kí kết hợp
đồng phải theo các điều kiện không phù hợp với Phần XI. Tuy nhiên, việc một
quốc gia thành viên áp dụng đối với những người kí kết hợp đồng do mình bảo trợ
hay đối với các tàu mang cờ nước minh, các luật và quy định liên quan đến việc
bảo vệ môi trường biển hay các luật và quy định khác chặt chẽ hơn các quy tắc,
quy định, thủ tục do Cơ quan quyền lực đặt ra theo Điều 17, khoản 2, điểm f của
phụ lục này, không bị coi là không phù hợp với Phần XI.
ĐIỀU 22. Trách nhiệm
Người kí kết hợp đồng phải chịu trách nhiệm về mọi tổn thất do
một hành động trái phép của họ trong khi tiến hành công việc gây ra, có tính
đến phần trách nhiệm có thể quy cho Cơ quan quyền lực do các hành động hay
thiếu sót của cơ quan này, Cơ quan quyền lực cũng phải chịu trách nhiệm về
những tổn thất do những hành động trái phép mà họ phạm phải trong khi thực hiện
các quyền hạn và chức năng của mình, kể cả các hành động vi phạm Điều 186,
khoản 2, có tính đến phần trách nhiệm có thể quy cho người kí kết do những hành
động hay thiếu sót của họ. Trong mọi trường hợp, mức bồi thường phải tương ứng
với thiệt hại thực sự.
ĐIỀU 1. Các mục đích
1. Xí nghiệp là cơ quan của Cơ quan quyền lực trực tiếp tiến
hành các hoạt động trong Vùng theo Điều 153, khoản 2, điểm a, cũng như các hoạt
động vận chuyển, chế biến và tiêu thụ các khoáng sản được khai thác từ Vùng.
2. Để thực hiện những mục đích và thi hành các chức năng của
mình, Xí nghiệp hành động theo đúng Công ước, các quy tắc, quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực.
3. Để khai thác các tài nguyên của Vùng theo khoản 1, với
điều kiện phải tuân theo Công ước, Xí nghiệp tiến hành các hoạt động của mình
theo đúng các nguyên tắc quản lý thương mại đúng đắn.
ĐIỀU 2. Các quan hệ với cơ quan quyền lực
1. Theo Điều 170, Xí nghiệp hành động theo đúng chính sách
chung do Đại hội động quyết định và theo đúng các chỉ thị của Hội đồng.
2. Với điều kiện tuân thủ khoản 1, Xí nghiệp hành động theo
cách tự quản.
3. Không một điều quy định nào của Công ước làm cho Xí
nghiệp có trách nhiệm về những hành động hay nghĩa vụ của Cơ quan quyền lực, cũng
không làm cho Cơ quan quyền lực chịu trách nhiệm về những hành động hay nghĩa
vụ của Xí nghiệp.
ĐIỀU 3. Giới hạn trách nhiệm
Không phương hại đến Điều 11, Khoản 3 của Phụ lục này, không
một uỷ viên nào của Cơ quan quyền lực phải chịu trách nhiệm về những hành động
hay nghĩa vụ của Xí nghiệp chỉ vì tư cách uỷ viên của mình.
ĐIỀU 4. Cơ cấu
Xí nghiệp có một Hội đồng quản trị, một Tổng giám đốc và
nhân viên cần thiết để thực hiện các chức năng của mình.
ĐIỀU 5. Hội đồng quản trị
1. Hội đồng quản trị gồm có 15 uỷ viên được Đại hội đồng bầu
ra theo đúng Điều 160, khoản 2, điểm c. Khi bầu các uỷ viên của Hội đồng quản
trị, phải tính đến các nguyên tắc phân chia công bằng về mặt địa lý. Trong khi
bầu cử các ứng cử viên vào Hội đồng, các uỷ viên của Cơ quan quyền lực cần tính
đến sự cần thiết phải chỉ định các ứng cử viên tinh thông nhất về nghiệp vụ và
có các phẩm chất cần thiết trong các lĩnh vực thích hợp để bảo đảm khả năng
đứng vững và thành công của Xí nghiệp.
2. Các uỷ viên của Hội đồng quản trị được bầu ra với một
nhiệm kỳ 4 năm và có thể được bầu lại. Khi bầu và bầu lại các uỷ viên của Hội
đồng quản trị, phải tính đến các nguyên tắc luân phiên.
3. Các uỷ viên của Hội đồng quản trị làm nhiệm vụ cho đến
khi bầu những người thay thế. Nếu khiếm khuyết một uỷ viên của Hội đồng quản
trị, thì theo Điều 160, khoản 2, điểm c, Đại hội đồng bầu một uỷ viên mới cho
khoảng thời gian còn lại thuộc nhiệm kỳ của uỷ viên bị khuyết.
4. Các uỷ viên của Hội đồng quản trị hành động với tư cách
cá nhân. Trong khi thi hành chức trách của mình, họ không được xin, nhận các
chỉ thị của một chính phủ nào hay của một nguồn nào khác. Các uỷ viên của Cơ
quan quyền lực tôn trọng tính độc lập của các uỷ viên của Hội đồng quản trị và
tránh bất kỳ ý đồ nào gây ảnh hưởng đến các uỷ viên của Hội đồng quản trị trong
việc thi hành các chức trách của họ.
5. Mỗi uỷ viên của Hội đồng quản trị được nhận một khoản
tiền thù lao tính vào các nguồn tài chính của Xí nghiệp. Số tiền thù lao này
được Đại hội đồng quy định, dựa theo kiến nghị của Hội đồng.
6. Bình thường, Hội đồng quản trị làm việc tại trụ sở cơ sở
chính của Xí nghiệp và nhóm họp mỗi khi công việc của Xí nghiệp đòi hỏi.
7. Số đại biểu cần thiết (quorum) là hai phần ba số uỷ viên của
Đại hội đồng quản trị.
8. Mỗi uỷ viên của Hội đồng quản trị có một phiếu. Hội đồng
quản trị quyết định về tất cả các vấn đề mà mình xem xét theo đa số các uỷ viên
của mình. Nếu có vấn đề nào gây nên tranh chấp về quyền lợi đối với một uỷ viên
thì uỷ viên này không tham gia bỏ phiếu về vấn đề này.
9. Bất kỳ uỷ viên nào của Cơ quan quyền lực cũng có thể yêu
cầu Hội đồng quản trị cung cấp các thông tin liên quan đến các hoạt động có
quan hệ đặc biệt đến mình. Hội đồng cố gắng cung cấp các thông tin này.
ĐIỀU 6. Các quyền hạn và chức năng của hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị điều hành Xí nghiệp. Với điều kiện chấp
hành Công ước, Hội đồng quản trị thi hành các quyền hạn cần thiết để thực hiện
các mục đích của Xí nghiệp, kể các các quyền:
a) Bầu một Chủ tịch trong số các uỷ viên của mình;
b) Thông qua quy chế nội bộ của mình;
c) Lập và gửi lên Hội đồng các kế hoạch làm việc theo đúng
thể thức và bằng văn bản theo đúng Điều 153, khoản 3, và Điều 162, khoản 2,
điểm j;
d) Soạn thảo các kế hoạch làm việc và các chương tình để
thực hiện các hoạt động nói trong Điều 170;
e) Thảo và trình lên Hội đồng những đơn xin cấp giấy phép
sản xuất, theo đúng Điều 151, các khoản 2 đến 7;
f) Cho phép các cuộc thương lượng liên quan đến việc mua các
kỹ thuật, nhất là các cuộc thương lượng đã trù định ở Điều 5, khoản 3, điểm a, c
và d của Phụ lục III, và chuẩn y các kết quả của các cuộc thương lượng này.
g) Ấn định các điều kiện và thể thức cho phép các cuộc
thương lượng liên quan đến các xí nghiệp liên doanh và các hình thức thoả thuận
về liên doanh khác đã nói trong các Điều 9 và 11 của Phụ lục III và chuẩn y các
kết quả của các cuộc thương lượng này;
h) Làm các kiến nghị lên Đại hội đồng về phần thu nhập thuần
tuý của xí nghiệp cần phải được dành ra để lập nên các dự trữ theo đúng Điều 16
khoản 2, điểm f, và Điều 10 của Phụ lục này;
i) Chuẩn y ngân sách hàng năm của Xí nghiệp;
j) Cho phép mua tài sản và thuê dịch vụ theo đúng Điều 12,
Khoản 3 của Phụ lục này;
k) Trình báo cáo hàng năm lên Hội đồng theo đúng Điều 9 của
Phụ lục này;
l) Trình lên Hội đồng để được Đại hội đồng chuẩn y các dự
thảo quy tắc liên quan đến tổ chức, quản lý, bổ nhiệm và thải hồi nhân viên của
Xí nghiệp, và thông qua các quy định đem lại hiệu lực cho các quy tắc này;
m) Vay vốn và cung cấp những bảo hành và bảo đảm khác mà
mình xác định theo đúng Điều 11, khoản 2 của Phụ lục này;
n) Quyết định việc kiện tụng, ký các hiệp định, thực hiện
những cuộc giao dịch và thi hành mọi biện pháp khác theo sự trù định trong Điều
13 của Phụ lục này;
o) Uỷ nhiệm, với điều kiện được sự chuẩn y của Hội đồng, mọi
quyền hạn không có tính chất tuỳ ý quyết định cho các uỷ ban hay Tổng giám đốc
của mình;
ĐIỀU 7. Tổng giám đốc và nhân viên
1. Dựa theo kiến nghị của Hội đồng, Đại hội đồng bầu ra trong
số các ứng cử viên do Hội đồng quản trị đề nghị, một Tổng giám đốc Xí nghiệp,
người này không được là uỷ viên của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc được bầu
trong một nhiệm kỳ nhất định không quá 5 năm và có thể được bầu lại cho những
nhiệm kỳ sau.
2. Tổng giám đốc là người đại diện hợp pháp của Xí nghiệp và
là người đứng đầu Xí nghiệp về mặt hành chính, trực tiếp chịu trách nhiệm trước
Hội đồng quản trị trong việc điều hành các hoạt động của Xí nghiệp. Tổng giám
đốc chịu trách nhiệm về tổ chức, quản lý, bổ nhiệm và bãi miễn nhân viên, theo
đúng quy tắc và quy định nêu ở Điều 6, điểm 1 của Phụ lục này. Tổng giám đốc
tham dự các cuộc họp của Hội đồng quản trị, nhưng không có quyền bỏ phiếu; ông
ta có thể tham gia các cuộc họp của Đại hội đồng và của Hội đồng khi các cơ
quan này xem xét những vấn đề liên quan đến Xí nghiệp, nhưng không có quyền bỏ
phiếu.
3. Căn cứ bao trùm trong việc tuyển mộ và quyết định các điều
kiện sử dụng nhân viên là bảo đảm cho Xí nghiệp những người phục vụ có năng lực
làm việc cao nhất và tinh thông nghiệp vụ nhất. Ngoài ra, phải tính đến tầm
quan trọng của việc tuyển mộ trên cơ sở công bằng về mặt địa lý.
4. Trong khi thi hành các chức trách của mình, Tổng giám đốc
và nhân viên của Xí nghiệp không được xin, nhận các chỉ thị của một chính phủ
nào hoặc của một nguồn nào khác, ngoài Xí nghiệp. Họ tránh bất kỳ hành vi nào
không phù hợp với tư cách viên chức quốc tế của Xí nghiệp và chỉ chịu trách
nhiệm trước Xí nghiệp. Mỗi quốc gia thành viên cam kết tôn trọng tính chất quốc
tế thuần tuý của các chức trách Tổng giám đốc và nhân viên của Xí nghiệp và
không tìm các gây ảnh hưởng tới việc thi hành nhiệm vụ của họ.
5. Các nhân viên của Xí nghiệp cũng có những trách nhiệm nói
ở Điều 168, khoản 2.
ĐIỀU 8. Địa điểm
Xí nghiệp có văn phòng chính đặt tại trụ sở của Cơ quan
quyền lực;
Xí nghiệp có thể mở các văn phòng và các cơ sở khác ở trên
lãnh thổ của bất kỳ quốc gia thành viên nào với sự thoả thuận của quốc gia này.
ĐIỀU 9. Các báo cáo và các bản quyết toán tài chính
1. Trong một thời hạn 3 tháng sau khi kết thúc mỗi tài khoá.
Xí nghiệp phải gửi một báo cáo hàng năm, bao gồm một bản quyết toán tài chính
đã được thẩm tra lên cho Hội đồng xem xét, và trong những khoảng thời gian
thích hợp gửi lên Hội đồng một bản quyết toán tài chính tổng hợp về tình hình
tài chính của mình và một bản quyết toán các khoản lỗ, lãi, thể hiện kết quả khai
thác của mình.
2. Xí nghiệp công bố báo cáo hàng năm của mình và tất cả các
bản quyết toán mà mình xét thấy cần thiết.
3. Tất cả các báo cáo và các bản quyết toán tài chính đã nêu
trong điều này được gửi cho các uỷ viên của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 10. Phân chia thu nhập thuần tuý
1. Với điều kiện tuân thủ khoản 3, Xí nghiệp nộp cho Cơ quan
quyền lực các khoản tiền được trù định trong Điều 13 của Phụ lục III hoặc một
thứ tương đương.
2. Dựa theo kiến nghị của Hội đồng quản trị, Đại hội đồng
quy định phần thu nhập thuần tuý của Xí nghiệp cần phải được dành ra để lập nên
các quỹ dự trữ, số dư được chuyển cho Cơ quan quyền lực.
3. Trong thời kỳ ban đầu, cần thiết đối với Xí nghiệp để tự
túc cho chính mình với một thời gian tối đa là 10 năm, kể từ khi bắt đầu việc
sản xuất hàng hoá, Đại hội đồng miễn cho Xí nghiệp những khoản nộp đã nêu ở
khoản 1 và đưa toàn bộ thu nhập thuần tuý của Xí nghiệp vào trong các quỹ dự
trữ của Xí nghiệp.
ĐIỀU 11. Tài chính
1. Các nguồn tài chính của Xí nghiệp gồm có:
a) Các khoản tiền nhận được của Cơ quan quyền lực phù hợp với
Điều 173, khoản 2, điểm b;
b) Những đóng góp tự nguyện của các quốc gia thành viên nhằm
mục đích tài trợ cho các hoạt động của Xí nghiệp;
c) Tổng số tiền vay mượn của Xí nghiệp theo đúng các khoản 2
và 3;
d) Thu nhập mà Xí nghiệp rút ra được từ các hoạt động của
mình;
e) Các nguồn tài chính khác giao cho Xí nghiệp sử dụng để
cho phép Xí nghiệp bắt đầu công việc của mình càng sớm càng tốt và việc thi
hành các chức năng của mình.
2. a) Xí nghiệp có quyền đi vay và cung cấp một sự bảo hành
hay bảo đảm khác mà Xí nghiệp có thể xác định được. Trước khi tiến hành việc
công khai bán các trái phiếu của mình trên thị trường tài chính hay bằng đồng
tiền của một quốc gia thành viên, Xí nghiệp phải được sự đồng ý của quốc gia
này. Tổng số tiền vay mượn phải được Hội đồng chuẩn y dựa theo ý kiến của Hội
đồng quản trị.
b) Các quốc gia thành viên cố gắng hết sức trong phạm vi hợp
lý ủng hộ các yêu cầu vay mượn của Xí nghiệp ở trên các thị trường tài chính và
với các cơ quan tài chính quốc tế.
3. a) Xí nghiệp được cung cấp các nguồn tài chính cần thiết
để thăm dò và khai thác một khu vực nhỏ, đẻ bảo đảm việc vận chuyển, chế biến
và tiêu thụ các khoáng sản mà Xí nghiệp khai thác được ở đó và các kim loại như
kền, đồng, cô-ban và măng-gan lấy ra từ các khoáng sản và để trang trải những
chi phí quản lý ban đầu của mình. Uỷ ban trù bị chỉ rõ trong dự thoả về các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, tổng số các nguồn tài chính
này, cũng như các tiêu chuẩn và yếu tố để thực hiện các điều chỉnh cần thiết;
b) Tất cả các quốc gia thành viên cung cấp cho các Xí nghiệp
một số tiền tương đương với một nửa các nguồn tài chính đã nêu ở điểm a, dưới
hình thức cho vay dài hạn không lấy lãi, theo đúng ba-rem của các khoản đóng
góp vào ngân sách thông thường của Liên hợp quốc hiện hàng, vào lúc nộp những
khoản đóng góp này với những điều chỉnh, vì có các quốc gia không phải là thành
viên của Liên hợp quốc. Nửa khác của các nguồn tài chính của Xí nghiệp là các
khoản do Xí nghiệp vay với sự bảo đảm của các quốc gia thành viên theo ba-rem
nói trên;
c) Nếu tổng số tiền đóng góp của các quốc gia thành viên
thấp hơn tổng số tiền của các nguồn tài chính phải được cung cấp cho Xí nghiệp
theo điểm a, Đại hội đồng xem xét ở khoá họp đầu tiên của mình chỗ thiếu hụt và
có tính đến những nghĩa vụ của các quốc gia thành viên theo các điểm a và b và
đến các kiến nghị của uỷ ban trù bị để thông qua bằng consensus (thoả thuận)
các biện pháp về khoản thiếu hụt này;
d) i. Trong 60 ngày sau khi Công ước có hiệu lực hay trong
30 ngày tiếp theo ngày gửi lưu chiểu các tài liệu phê chuẩn hay gia nhập, thời
hạn nào dài nhất thì được sử dụng, mỗi quốc gia thành viên cần gửi tới Xí
nghiệp các kỳ phiếu không thể chuyển đổi, không thể chuyển dịch hay không có
lãi tương đương với số tiền thuộc phần mình về các khoản tiền cho vay không có
lãi nói ở điểm b;
ii. Càng sớm càng tốt, sau khi Công ước bắt đầu có hiệu lực,
sau đó cứ hàng năm hay theo những khoảng thời gian thích hợp khác, Hội đồng
quản trị của Xí nghiệp, cùng với sổ kỳ hạn (échéancier) cấp kinh phí cho các
chi tiêu hành chính của xí nghiệp và cho các hoạt động mà xí nghiệp tiến hành
theo Điều 170 và Điều 12 của Phụ lục này;
iii. Qua trung gian của Cơ quan quyền lực, Xí nghiệp thông
báo cho các quốc gian thành viên phần đóng góp của họ và các chi phí này, được
xác định theo đúng điểm b; Xí nghiệp thu các kỳ phiếu tương đương với tổng số
tiền cần thiết để bảo đảm các khoản chi tiêu đã ghi trong sổ kỳ hạn cấp kinh
phí, có tính đến những khoản vay không có lãi;
iv. Ngay khi nhận được thông báo, các quốc gia thành viên
giao cho Xí nghiệp sử dụng các phần bảo đảm của mình đối với các khoản vay nợ theo
đúng điểm b;
e) i. Nếu Xí nghiệp yêu cầu, các quốc gia thành viên có thể
cung cấp các khoản bảo đảm nợ, thêm vào các khoản mà họ cung cấp theo ba-rem
nói ở điểm b;
ii. Thay thế cho một sự bảo đảm nợ, một quốc gia thành viên
có thể nộp cho Xí nghiệp một khoản đóng góp tự nguyện với một số tiền tương
đương với phần nợ mà quốc gia đó có thể đã hứa bảo đảm;
f) Việc trả nợ có lãi được ưu tiên hơn việc trả nợ không
lãi. Các món nợ không có lãi được hoàn trả theo một lịch được Đại hội đồng chấp
nhận, dựa theo kiến nghị của Hội đồng và sau khi có ý kiến của Hội đồng quản
trị của Xí nghiệp. Hội đồng quản trị thi hành chức năng này theo đúng các điều
khoản tương ứng trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
Các quy tắc, quy định và thủ tục này có tính đến sự cần thiết cơ bản là bảo đảm
cho Xí nghiệp hoạt động tốt, và đặc biệt là, bảo đảm được tính độc lập về tài
chính của Xí nghiệp ;
g) Các khoản tiền đóng góp cho Xí nghiệp là bằng những đồng
tiền có thể sử dụng tự do hay bằng những đồng tiền được chuyển đổi tự do và đang
được sử dụng thực sự trên thị trường hối đoái chính. Những đồng tiền này được xác
định trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực theo đúng các
tập quán tiền tệ quốc tế thông dụng. Với điều kiện tuân thủ khoản 2, không một
quốc gia thành viên nào áp dụng hay áp đặt những điều hạn chế có liên quan đến
khả năng để cho Xí nghiệp giữ, sử dụng hay trao đổi các khoản tiền này.
h) Thuật ngữ "bảo đảm nợ", có nghĩa là một
quốc gia thành viên hứa với các chủ nợ của Xí nghiệp, giữ trọn nghĩa vụ tài
chính của Xí nghiệp được bảo đảm trong phạm vi được trù định trong ba-rem thích
hợp, sau khi các chủ nợ thông báo về việc Xí nghiệp không thực hiện các nghĩa
vụ nói trên. Các thủ tục thi hành các nghĩa vụ này phải phù hợp với các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
4. Các nguồn tài chính, tài sản và chi phí của Xí nghiệp
phải tách khỏi các nguồn tài chính, tài sản và chi phí của Cơ quan quyền lực.
Tuy nhiên, Xí nghiệp có thể ký kết với Cơ quan quyền lực các thoả thuận về việc
hoàn lại các chi phí hành chính mà cơ quan này đã chi phí cho cơ quan kia.
5. Các tài liệu, sổ sách và tài khoản của Xí nghiệp, kể cả
các bản quyết toán hàng năm, được một uỷ viên kế toán độc lập do Hội đồng chỉ
định kiểm tra hàng năm.
ĐIỀU 12. Các nghiệp vụ
1. Xí nghiệp đề xuất với Hội đồng các dự án liên quan đến
các hoạt động nói trong Điều 170. Những dự án này bao gồm một kế hoạch làm việc
chính thức và bằng văn bản về các hoạt động tiến hành trong Vùng, theo đúng
Điều 153, khoản 3, cũng như tất cả những thông tin hay số liệu khác có thể cần
thiết cho việc uỷ ban pháp lý và kỹ thuật đánh giá các dự án đó và cho việc Hội
đồng chuẩn y các dự án này.
2. Một khi dự án đã được Hội đồng chuẩn y, Xí nghiệp thi
hành nó theo kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản đã nêu ở khoản 1.
3. a) Nếu Xí nghiệp không sẵn có các tài sản và dịch vụ cần
thiết cho các hoạt động của mình, thì có thể tìm lấy của cải và dịch vụ đó. Vì
mục đích đó, Xí nghiệp tiến hành gọi thầu và ký giao kèo với những người nhận
thầu nào lời nhất cả về chất lượng, giá cả lẫn thời gian giao hàng ;
b) Nếu nhiều đơn nhận thầu đáp ứng được các điều kiện này,
thì giao kèo đấu thầu phải theo đúng:
i. Nguyên tắc không phân biệt đối xử dựa trên các lý do chính
trị hoặc lý do khác không liên quan gì đến việc thi hành nhanh chóng và có hiệu
quả các nghiệp vụ;
ii. Các chỉ thị do Hội đồng quyết định có liên quan đến việc
dành ưu tiên cho các tài sản và dịch vụ do các quốc gia đang phát triển cung
cấp, đặc biệt là, các nước không có biển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi
trong số các nước đó;
c) Hội đồng quản trị có thể thông qua các quy tắc xác định
các hoàn cảnh đặc biệt, mà trong đó, vì lợi ích của Xí nghiệp, nó có thể vi phạm
nghĩa vụ phải tiến hành các cuộc đấu thầu.
4. Xí nghiệp có quyền sở hữu đối với tất cả các khoáng sản và
tất cả các chất được chế biến mà xí nghiệp sản xuất ra.
5. Xí nghiệp bán các sản phẩm của mình trên một cơ sở không
phân biệt đối xử, và không chấp nhận việc giảm giá không có tính chất kinh
doanh.
6. Không phương hại đến các quyền hạn chung hoặc đặc biệt
nào do các quy định khác của Công ước giao cho; Xí nghiệp sử dụng các quyền hạn
cần thiết để điều hành các hoạt động kinh doanh của mình.
7. Xí nghiệp không được can thiệp vào các hoạt động chính
trị của các quốc gia thành viên và không để cho khuynh hướng chính trị của quốc
gia mà mình có quan hệ gây ảnh hưởng đến các quyết định của mình. Các quyết
định của Xí nghiệp chỉ dựa trên cơ sở các lý do thuộc về thương mại mà Xí
nghiệp xem xét một cách vô tư nhằm đạt đến các mục đích được xác định ở Điều 1
của Phụ lục này.
ĐIỀU 13. Quy chế pháp lý, các quyền miễn trừ và đặc quyền
1. Để cho phép Xí nghiệp thi hành các chức năng của mình,
quy chế pháp lý, các quyền miễn trừ và đặc quyền được xác định trong điều này được
thừa nhận cho Xí nghiệp hưởng trên lãnh thổ của các quốc gia thành viên. Để cho
nguyên tắc này có hiệu lực, Xí nghiệp và các quốc gia thành viên có thể ký kết
các hiệp định đặc biệt mà họ thấy cần thiết.
2. Xí nghiệp có quyền về mặt pháp lý cần thiết để thi hành
các chức năng và thực hiện các mục đích của mình, và đặc biệt có quyền:
a) Ký các hợp đồng và các thoả thuận liên doanh hay các thoả
thuận khác, kể cả các hiệp định với các quốc gia hay các tổ chức quốc tế.
b) Mua sắm, thuê mướn, gìn giữ, và chuyển nhượng các động
sản và bất động sản;
c) Kiện tụng.
3. a) Xí nghiệp chỉ có thể bị kiện trước các toà án có thẩm
quyền ở một quốc gia thành viên mà trên lãnh thổ nước đó, xí nghiệp:
i. Có một văn phòng, hay có các cơ sở ;
ii. Đã chỉ định một nhân viên để tiếp nhận việc truyền đạt
các bản tống đạt về tư pháp;
iii. Ký giao kèo về của cải hay dịch vụ;
iv. Phát hành các chứng khoán, hoặc
v. Thực hiện một hoạt động thương mại dưới bất kỳ hình thức
nào khác.
b) Các của cải và tài sản của xí nghiệp, dù ở đâu và người
giữ là ai, đều được miễn mọi hình thức cầm giữ hay mọi biện pháp tịch thu tài
sản khác chừng nào mà một bản án cuối cùng đối với Xí nghiệp chưa được tuyên
bố.
4. a) Của cải và tài sản của xí nghiệp, dù ở đâu và do ai
giữ, cũng được miễn không bị trưng thu, tịch thu, tước đoạt hay phải chịu bất
kỳ hình thức sai áp nào khác do một biện pháp thuộc quyền hành pháp hay quyền
lập pháp.
b) Của cải, tài sản của Xí nghiệp, dù ở đâu và do ai giữ,
cũng không phải chịu một dự kiểm soát, hạn chế, quy định hay lệnh tạm hoãn nào
mang tính chất phân biệt đối xử, dù thuộc loại nào.
c) Xí nghiệp và nhân viên của Xí nghiệp tôn trọng các luật
và quy định của bất kỳ quốc gia hay lãnh thổ nào mà ở đó, Xí nghiệp hay nhân
viên tiến hành các hoạt động công nghiệp và thương mại hay các hoạt động khác.
d) Các quốc gia thành viên bảo đảm cho xí nghiệp được hưởng
tất cả các quyền, quyền miễn trừ và đặc quyền mà họ đã đồng ý dành cho các thực
thể hoạt động thương mại ở trên lãnh thổ của mình. Các quyền, quyền miễn trừ và
đặc quyền này được dành cho các Xí nghiệp theo các thể thức không kém thuận lợi
hơn các quyền dành cho các thực thể hoạt động thương mại tương tự. Khi các quốc
gia đồng ý cho các quốc gia đang phát triển hay các thực thể thương mại của họ
hưởng các quyền ưu tiên đặc biệt, thì Xí nghiệp cũng được hưởng các đặc quyền
này trên một cơ sở ưu tiên tương tự;
e) Các quốc gia thành viên có thể đồng ý cho Xí nghiệp được
hưởng các kích thích, quyền, đặc quyền và quyền miễn trừ đặc biệt mà họ không
buộc phải dành cho các thực thể thương mại khác hưởng.
5. Xí nghiệp thương lượng với các quốc gia mà ở trên lãnh
thổ các quốc gia đó, Xí nghiệp có các văn phòng và các cơ sở, để được miễn tất
cả mọi thứ thuế trực thu và gián thu.
6. Mỗi quốc gia thành viên thi hành các biện pháp cần thiết
để đem lại hiệu lực trong pháp luật của mình cho những nguyên tắc đã được nêu
trong Phụ lục này và thông váo cho Xí nghiệp biết những biện pháp cụ thể mà họ
đã định.
7. Xí nghiệp có thể từ bỏ bất kỳ đặc quyền hay quyền miễn
trừ nào do điều này do các hiệp định đặc biệt nói ở khoản 1 dành cho mình, trong
phạm vi và theo các điều kiện do mình quy định.
MỤC 1. HOÀ GIẢI THEO ĐÚNG MỤC 1 CỦA PHẦN XV
ĐIỀU 1. Khởi đầu thủ tục
Nếu các bên trong một vụ tranh chấp thoả thuận đưa ra hoà
giải theo thủ tục được trù định ở mục này, theo đúng Điều 248, thì bất kỳ bên
tranh chấp nào đều có đề xuất thủ tục bằng một thông báo viết gửi đến cho bên
khác hay các bên khác trong vụ tranh chấp.
ĐIỀU 2. Danh sách các hoà giải viên
1. Tổng thư ký Liên hợp quốc lập và giữ một bản danh sách
các hoà giải viên. Mỗi quốc gia thành viên có quyền chỉ định bốn hoà giải viên
có tiếng là công minh nhất, có trình độ và vô tư nhất. Tên của các nhân vật
được chỉ định như vậy được ghi trên bản danh sách.
2. Nếu vào một thời điểm nào đó, số lượng các hoà giải viên
do một quốc gia thành viên chỉ định và thể hiện ở trên bản danh sách dưới bốn
người, thì quốc gia này có thể tiến hành việc chỉ định bổ sung mà mình có
quyền.
3. Tên của một hoà giải viên được ghi trên bản danh sách cho
đến khi bị quốc gia thành viên chỉ định người đó rút đi, đương nhiên là hoà
giải viên này tiếp tục giữ chức ở bất kỳ uỷ ban hoà giải nào mà người này đã
được cử, cho đến khi thủ tục tiến hành trước khi uỷ ban này được hoàn thành.
ĐIỀU 3. Cơ cấu của uỷ ban hoà giải
Trừ khi các bên có thoả thuận khác, uỷ ban hoà giải được lập
ra theo các cách sau đây:
a) Với điều kiện tuân thủ điểm g, uỷ ban hoà giải gồm có năm
uỷ viên.
b) Bên đề xuất thủ tục chỉ định hai hoà giải viên được tuỳ ý
lực chọn trên bản danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này, và một trong hai hoà
giải viên đó có thể là công dân của mình, trừ khi các bên có thoả thuận khác.
Việc chỉ định này được ghi rõ trong thông báo được trù định
ở Điều 1 ;
c) Bên kia trong vụ tranh chấp, trong một thời hạn 21 ngày,
kể từ khi nhận được thông báo nói ở Điều 1, chỉ định hai hoà giải viên theo
cách đã trù định ở điểm b. Nếu việc chỉ định này không được tiến hành trong
thời hạn quy định, bên đề xuất thủ tục, trong tuần lễ tiếp sau khi hết thời hạn
này, có thể hoặc chấm dứt thủ tục bằng thông báo gửi cho bên kia, hoặc yêu cầu
Tổng thư ký Liên hợp quốc tiến hành những bổ nhiệm người này theo đúng điểm e;
d) Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bổ nhiệm người hoà giải
cuối cùng, bốn hoà giải viên chỉ định một người thứ năm, được lựa chọn trên danh
sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này, người thứ năm này sẽ là Chủ tịch. Nếu việc
bổ nhiệm không được làm trong thời gian quy định, thì mỗi bên, trong tuần lễ
tiếp sau khi kết thúc thời hạn này, có thể yêu cầu Tổng thư ký Liên hợp quốc
tiến hành việc bổ nhiệm này theo đúng điểm e;
e) Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được một yêu cầu
làm theo các điểm c hoặc điểm d. Tổng thư ký Liên hợp quốc tiến hành việc bổ
nhiệm cần thiết bằng cách lựa chọn, có tham khảo ý kiến với các bên trong vụ
tranh chấp, các nhân vật ghi ở bản danh sách nêu ở Điều 2 của Phụ lục này ;
f) Cần bổ sung bất kỳ ghế nào bị trông theo cách đã trù định
cho việc bổ nhiệm ban đầu ;
g) Khi hai bên hay nhiều bên thoả thuận cũng đứng về một
phía thì họ cùng nhau chỉ định hai hoà giải viên. Khi hai hay nhiều bên không
cùng đứng về một phía hay không thể thoả thuận về điểm có đứng về một phía hay
không, thì họ chỉ định các hoà giải viên riêng lẻ;
h) Khi có quá hai bên không đứng về cùng một phía hay không
thể thoả thuận về điểm có đứng về một phía hay không, thì các bên trong vụ tranh
chấp áp dụng các điểm a đến f đến hết mức có thể.
ĐIỀU 4. Thủ tục
Trừ khi các bên hữu quan có thoả thuận khác, uỷ ban hoà giải
tự quyết định thủ tục của mình. Với sự thoả thuận của các bên trong vụ tranh
chấp, uỷ ban hoà giải có thể mời bất kỳ quốc gia thành viên nào trình bày với
mình những ý kiến của họ bằng lời hay bằng văn bản. Các quyết định về thủ tục,
các kiến nghị và báo cáo của uỷ ban được thông qua theo đa số các uỷ viên của
mình.
ĐIỀU 5. Giải pháp hoà giải
Uỷ ban có thể lưu ý các bên về mọi biện pháp có thể có để
làm dễ dàng cho giải pháp hoà giải vụ tranh chấp.
ĐIỀU 6. Các chức năng của uỷ ban
Uỷ ban lắng nghe các bên, xem xét các đòi hỏi và ý kiến phản
đối của họ và nêu ra các đề nghị nhằm giúp họ đạt tới một giải pháp hoà giải vụ
tranh chấp.
ĐIỀU 7. Báo cáo
1. Uỷ ban làm báo cáo trong vòng 12 tháng sau khi được lập
ra. Báo cáo của uỷ ban bao gồm bất kỳ thoả thuận nào đạt được và, nếu không có
thoả thuận, các kết luận của uỷ ban về tất cả các điểm về thực tế hay pháp lý
có quan hệ tới đối tượng của vụ tranh chấp, cũng như những khuyến nghị mà uỷ
ban xét thấy thích hợp, nhằm đi tới một giải pháp hoà giải. Báo cáo được gửi
lên Tổng thư ký Liên hợp quốc và chuyển tới các bên tham gia vụ tranh chấp.
2. Báo cáo của uỷ ban, kể cả mọi kết luận hay khuyến nghị
trong đó, không ràng buộc các bên.
ĐIỀU 8. Việc kết thúc thủ tục
Thủ tục hoà giải kết thúc khi vụ tranh chấp đã được giải
quyết khi các bên đã chấp nhận hay một bên đã bác bỏ các khuyến nghị trong báo
cáo qua con đường thông báo bằng văn bản gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp quốc,
hoặc là sau ba tháng kể từ ngày truyền đạt báo cáo cho các bên.
ĐIỀU 9. Tiền thù lao và lệ phí
Tiền thù lao và lệ phí của Uỷ ban do các bên tham gia tranh
chấp chịu.
ĐIỀU 10. Quyền của các bên không theo thủ tục
Các bên tham gia tranh chấp, qua một thoả thuận áp dụng chỉ
cho vụ tranh chấp này, có thể thoả thuận bỏ qua bất kỳ quy định nào của Phụ lục
này.
MỤC 2. BẮT BUỘC THEO THỦ TỤC HOÀ GIẢI THEO ĐÚNG MỤC 3 CỦA
PHẦN XV
ĐIỀU 11. Việc khởi đầu thủ tục
1. Theo đúng mục 3 của phần XV, bất kỳ bên nào trong một vụ
tranh chấp có thể đưa ra hoà giải theo thủ tục đã trù định ở mục này, có thể
bắt đầu thủ tục bằng một bản thông báo gửi cho bên kia hay các bên kia trong vụ
tranh chấp.
2. Bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp, khi đã nhận được
thông báo đã được trù định ở khoản 1, thì bắt buộc phải chấp nhận thủ tục hoà
giải.
ĐIỀU 12. Không có trả lời hay từ chối chấp hành thủ tục
Việc một hay nhiều bên tham gia vào vụ tranh chấp không trả
lời thông báo mở đầu một thủ tục hoà giải hay không chấp nhận một thủ tục như thế,
không phải là một trở ngại cho thủ tục.
ĐIỀU 13. Thẩm quyền
Trong trường hợp có tranh cãi về điểm, liệu một uỷ ban hoà
giải được lập nên theo mục này có thẩm quyền không, thì uỷ ban này quyết định.
ĐIỀU 14. Áp dụng mục 1
Các Điều 2 đến 10 của mục 1 của Phụ lục này được áp dụng với
điều kiện tuân thủ các quy định của mục này.
ĐIỀU 1. Các quy định chung
1. Toà án quốc tế về luật biển được thành lập và hoạt động
theo đúng các quy định của Công ước và quy chế này.
2. Toà án đặt trụ sở tại thành phố tự do và buôn bán
Hăm-buốc thuộc nước Cộng hoà liên bang Đức.
3. Tuy nhiên, toà án có thể đặt trụ sở và thi hành các chức
năng ở nơi khác, nếu xét thấy tiện lợi hơn.
4. Việc đưa một vụ tranh chấp ra toà phải do các phần XI và XV
điều chỉnh.
MỤC 1. TỔ CHỨC CỦA TOÀ ÁN
ĐIỀU 2. Thành phần
1. Toà án là một tập thể gồm 21 thành viên độc lập, được
tuyển chọn trong số các nhân vật nổi tiếng nhất về công bằng và liêm khiết, có
năng lực rõ ràng trong lĩnh vực luật biển.
2. Thành phần của Toà án phải đảm bảo có sự đại điện của các
hệ thống pháp luật chủ yếu của thế giới và một sự phân chia công bằng về mặt
địa lý.
ĐIỀU 3. Các thành viên của Toà án
1. Toà án không thể có quá một công dân của cùng quốc gia.
Về phương diện này, một nhân vật có thể bị coi là công dân của quá một quốc gia
sẽ được coi như là công dân của quốc gia mà nhân vật đó thường thi hành các
quyền dân sự và chính trị của mình.
2. Mỗi nhóm theo địa lý do Đại hội đồng Liên hợp quốc xác
định phải có ít nhất là 3 thành viên ở trong Toà án.
ĐIỀU 4. Các việc ứng cử và bầu cứ
1. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ định nhiều nhất là hai
người có đủ các điều kiện được trù định ở Điều 2 của Phụ lục này. Các thành
viên của Toà án được tuyển lựa trên bản danh sách những người đã được chỉ định
như thế.
2. Ít nhất là ba tháng trước ngày bầu cử Tổng thư ký Liên
hợp quốc, nếu là cuộc bầu cử đầu tiên, hay thư ký của Toà án, nếu là cuộc bầu
cử sau, gửi giấy mời các quốc gia thành viên, trong một thời hạn là hai tháng,
thông báo danh sách các ứng cử viên của họ. Tổng thư ký hay thư ký của Toà án
lập ra một bản danh sách theo thứ tự a, b c tất cả những ứng cử viên được chỉ
định như vậy, có ghi rõ các quốc gia thành viên chỉ định họ, và thông bao danh sách
này cho các quốc gia thành viên trước ngày thứ bảy của tháng cuối cùng trước
ngày bầu cử.
3. Cuộc bầu cử đầu tiên diễn ra chậm nhất là sáu tháng sau
ngày Công ước có hiệu lực.
4. Các thành viên của Toà án được bầu bằng cách bỏ phiếu
kín. Các cuộc bầu cử được tiến hành trong một hội nghị các quốc gia thành viên
do Tổng thư ký Liên hợp quốc triệu tập đối với trường hợp bầu cử đầu tiên, và
theo thủ tục do các quốc gia thành viên quy định trong trường hợp các cuộc bầu cử
tiếp sau. Ở mỗi hội nghị này, số đại biểu cần thiết (quorum) của hội nghị gồm
hai phần ba số quốc gia thành viên. Các thành viên của Toà án được bầu là những
ứng cử viên đạt được số phiếu bầu cao nhất và phải được hai phần ba số quốc gia
thành viên có mặt và bỏ phiếu, đương nhiên là đa số này phải gồm đa số các quốc
gia thành viên.
ĐIỀU 5. Nhiệm kỳ
1. Các thành viên của Toà án được bầu với nhiệm kỳ là chín
năm và có thể được tái cử; tuy nhiên, đối với các thành viên được bầu ở cuộc
bầu cử đầu tiên, bảy người sẽ mãn nhiện kỳ sau ba năm và bảy người khác sẽ mãn
nhiệm kỳ sau sáu năm.
2. Các thành viên của Toà án mãn nhiệm kỳ theo các thời hạn
ban đầu là ba năm và sáu năm nói ở trên sẽ được chỉ định qua rút thăm do Tổng
thư ký Liên hợp quốc thực hiện ngay sau cuộc bầu cử đầu tiên.
3. Các thành viên của Toà án giữ chức vụ cho tới khi có
người thay thế. Mỗi khi bị thay thế, họ tiếp tục xét xử các vụ mà họ đang xét
trước đó.
4. Nếu một số thành viên của Toà án từ chức, đơn xin từ chức
được gửi lên cho Chánh án Toà án. Ghế của thành viên trở nên bị trống vào thời
gian nhận được đơn xin từ chức.
ĐIỀU 6. Các ghế bị trống
1. Các ghế bị trống phải được bổ sung theo phương pháp đã
dùng cho cuộc bầu cử đầu tiên, với điều kiện phải theo quy định sau đây: thư ký
của Toà án tiến hành trong tháng tiếp theo ngày có ghế bị trống việc mời theo
quy định của Điều 4 của Phụ lục này và Chánh án Toà án quy định thời gian bầu
cử sau khi tham khảo ý kiến của các quốc gia thành viên.
2. Thành viên của Toà án được bầu thay cho một thành viên
chưa hết nhiệm kỳ hoàn thành nốt nhiệm vụ của người mình thay thế.
ĐIỀU 7. Sự không thể kiêm nhiệm
1. Một thành viên của Toà án không thể đảm nhiệm bất kỳ một
chức vụ chính trị hay hành chính nào, cũng như không được chủ động tham gia hay
có liên quan về tài chính trong một hoạt động nào của một xí nghiệp đang tiến
hành thăm dò hoặc khai thác các tài nguyên ở biển hay ở dưới đáy biển hoặc một
việc sử dụng biển hay đáy biển vào mục đích thương mại khác.
2. Một thành viên của Toà án không được làm những nhiệm vụ
đại diện, cố vấn hay luật sư trong bất cứ vụ kiện nào.
3. Trong trường hợp có nghi vấn về các điểm này, Toà án
quyết định theo đa số các thành viên khác có mặt.
ĐIỀU 8. Các điều kiện liên quan đến việc tham gia của các
thành viên vào việc giải quyết một vụ kiện nhất định
1. Một thành viên của Toà án không thể tham gia vào việc
giải quyết một vụ kiện nào mà trước đây ông ta đã tham dự với tư cách đại diện,
cố vấn hay luật sư của một trong các bên, hay với tư cách thành viên của một
Toà án quốc gia hay quốc tế hay với bất cứ danh nghĩa nào khác.
2. Nếu vì một lý do đặc biệt, một thành viên của Toà án thấy
không nên dự vào việc giải quyết một vụ kiện nhất định, thì ông ta báo cho
Chánh án.
3. Nếu Chánh án thấy một thành viên của Toà án, vì một lý do
đặc biệt, không được ngồi xử trong một vụ kiện nhất định, thì báo cho thành
viên đó.
4. Trong trường hợp có nghi vấn về các điểm này, Toà án
quyết định theo đa số các thành viên khác có mặt.
ĐIỀU 9. Hậu quả do một thành viên của Toà án không đáp ứng
các điều kiện cần thiết
Nếu theo ý kiến nhất trí của các thành viên khác, một thành
viên của Toà án đã không đáp ứng các điều kiện cần thiết, thì Chánh án Toà án
tuyên bố ghế của thành viên này trống.
ĐIỀU 10. Các đặc quyền và quyền miễn trừ
Trong khi thi hành các chức trách của mình, các thành viên của
Toà án được hưởng các đặc quyền và các quyền miễn trừ ngoại giao.
ĐIỀU 11. Cam kết long trọng
Trước khi đảm nhận chức trách, bất kỳ thành viên nào của Toà
án cũng cần công khai cam kết long trọng thi hành các quyền hạn của mình hoàn
toàn vô tư và hết sức trung thực.
ĐIỀU 12. Chánh án, phó chánh án và thư ký toà án
1. Toà án bầu ra Chánh án và phó chánh án với nhiệm kỳ 3
năm, các vị này có thể được bầu lại.
2. Toà án bổ nhiệm thư ký của Toà án và có thể bổ nhiệm
những viên chức khác như thế, nếu thấy cần thiết.
3. Chánh án và thư ký của Toà án làm việc tại trụ sở của Toà
án.
ĐIỀU 13. Số đại biểu cần thiết (quorum)
1. Tất cả các thành viên có mặt của Toà án ngồi xử án, phải
đủ 11 thành viên được bầu mới được lập Toà án.
2. Toà án quyết định những thành viên nào có thể được sử
dụng để xét một vụ tranh chấp nhất định nào đó, có tính đến Điều 17 của Phụ lục
này và sự cần thiết bảo đảm hoạt động tốt của các Viện nói ở các Điều 14 và 15
của Phụ lục này.
3. Toà án quyết định về tất cả các tranh chấp và về tất cả
các đơn đã trình lên mình, trừ khi Điều 14 của Phụ lục này được áp dụng hoặc
trừ khi các bên yêu cầu áp dụng Điều 15 của cùng Phụ lục này.
ĐIỀU 14. Viện giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến đáy
biển
Một Viện giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến đáy biển
được thành lập theo đúng Mục 4 của Phụ lục này. Thẩm quyền, các quyền hạn và
các chức năng của Viện được xác định trong Mục 5 của Phần XI.
ĐIỀU 15. Các viện đặc biệt
1. Nếu thấy cần thiết, Toà án có thể lập ra các viện, gồm ít
nhất là ba thành viên được bầu để xét xử các loại vụ kiện nhất định.
2. Toà án lập ra một viện để xét xử một vụ tranh chấp nhất
định được đệ trình lên Toà, nếu các bên yêu cầu. Thành phần của viện này được
Toà án quy định với sự thoả thuận của các bên.
3. Nhằm giải quyết nhanh các vụ kiện, mỗi năm Toà án lập ra một
viện gồm năm thành viên được bầu để xét xử theo thủ tục rút gọn. Ngoài ra có
thêm hai thành viên được chỉ định để thay thế những thành viên không có khả
năng tham dự vào một vụ kiện nhất định.
4. Các Viện được trù định ở điều này tiến hành xét xử, nếu các
bên có quyền yêu cầu.
5. Bất kỳ phán quyết nào của một trong số các viện đã được
trù định ở điều này và Điều 14 của Phụ lục này đều được coi như phán quyết của
Toà án.
ĐIỀU 16. Quy chế của Toà án
Toà án xác định qua một quy chế, cách thức thi hành các chức
năng của mình. Đặc biệt là Toà án quy định thủ tục của mình.
ĐIỀU 17. Các thành viên có quốc tịch của các bên
1. Thành viên có quốc tịch của một bên nào đó trong số các
bên của một vụ tranh chấp có quyền ngồi xử.
2. Khi xét xử một vụ tranh chấp, nếu Toà án có một thành
viên thuộc quốc tịch của một trong các bên, thì bất kỳ bên nào khác trong vụ
tranh chấp có thể chỉ định một người theo sự lựa chọn của mình để tham gia xét
xử với tư cách thành viên của Toà án.
3. Khi xét xử một vụ tranh chấp, nếu Toà án không có một
thành viên nào thuộc quốc tịch của các bên, thì mỗi bên trong các bên này có
thể chỉ định một người theo sự lựa chọn của mình để tham gia xét xử với tư cách
thành viên của Toà án.
4. Điều này được áp dụng cho các viện nói trong các Điều 14
và 15 của Phụ lục này. Trong trường hợp như vậy, Chánh án Toà án sau khi trao
đổi với các bên, yêu cầu một số thành viên đúng số lượng cần thiết nhường chỗ
cho các thành viên của Toà án thuộc quốc tịch của các bên hữu quan và nếu không
có hoặc trong trong trường hợp trở ngại, thì nhường chỗ cho các thành viên được
các bên này chỉ định một cách đặc biệt.
5. Khi nhiều bên cùng đứng về một phía trong việc áp dụng
các điều quy định nói trên, họ chỉ được coi như một bên. Trong trường hợp nghi
vấn, Toà án sẽ quyết định.
6. Các thành viên được chỉ định theo đúng các khoản 2, 3 và
4 cần phải đáp ứng những điều kiện trong các Điều 2, 8 và 11 của Phụ lục này.
Họ tham gia vào việc quyết định trong những điều kiện hoàn toàn bình đẳng với
đồng nghiệp của họ.
ĐIỀU 18. Thù lao
1. Mỗi thành viên của Toà án nhận một khoản tiền lương hàng
năm, cũng như một khoản trợ cấp đặc biệt cho mỗi ngày mà họ làm nhiệm vụ của
mình, miễn là tổng số tiền trợ cấp đặc biệt mỗi năm không được vượt quá tổng số
tiền lương hàng năm.
2. Chánh án được một khoản trợ cấp đặc biệt hàng năm.
3. Phó chánh án nhận một khoản trợ cấp đặc biệt cho mỗi ngày
mà ông ta làm nhiệm vụ của chánh án.
4. Các thành viên được chỉ định theo Điều 17 của Phụ lục
này, ngoài các thành viên được bầu của Toà án, được phụ cấp cho mỗi ngày mà họ thi
hành các chức trách của họ.
5. Các khoản tiền lương, trợ cấp và phụ cấp này được quy định
lại theo từng thời gian, trong các cuộc họp của các quốc gia thành viên, có
tính đến khối lượng công việc của Toà án. Các khoản này không thể bị giảm bớt
trong suốt thời gian thi hành chức vụ.
6. Lương của thư ký Toà án được quy định trong các cuộc họp
của các quốc gia thành viên dựa trên đề nghị của Toà án.
7. Các quy định được thông qua trong các cuộc hội nghị của
các quốc gia thành viên ấn định các điều kiện, trong đó các khoản tiền hưu được
trợ cấp cho các thành viên của Toà án và cho thư ký Toà án cũng như các điều
kiện thanh toán các chi phí đi lại của họ.
8. Lương, trợ cấp và phụ cấp được miễn mọi thứ thuế.
ĐIỀU 19. Các kinh phí của Toà án
1. Các kinh phí của Toà án do các quốc gia thành viên và Cơ
quan quyền lực đảm nhận trong các điều kiện và theo cách thức được quyết định
trong các cuộc hội nghị của các quốc gia thành viên.
2. Khi một thực thể không phải là một quốc gia thành viên
hay Cơ quan quyền lực, là một bên trong một vụ tranh chấp đưa ra Toà án xét xử,
thì Toà án quyết định phần đóng góp của bên này vào các kinh phí của Toà án.
MỤC 2. THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN
ĐIỀU 20. Quyền được đưa vấn đề ra Toà án
1. Toà án được để ngỏ cho các quốc gia thành viên.
2. Toà án được để ngỏ cho các thực thể không phải là các
quốc gia thành viên trong tất cả các trường hợp đã được quy định rõ trong phần
XI hay cho mọi tranh chấp được đưa ra theo mọi thoả thuận khác, giao cho Toà án
một thoả quyền được tất cả các bên trong vụ tranh chấp thoả thuận.
ĐIỀU 21. Thẩm quyền
Toà án có thẩm quyền đối với tất cả các vụ tranh chấp và tất
cả các yêu cầu được đưa ra Toà theo đúng Công ước, và đối với tất cả các trường
hợp được trù định rõ trong mọi thoả thuận khác, giao thẩm quyền cho Toà án.
ĐIỀU 22. Việc đưa ra Toà án các vụ tranh chấp liên quan đến
các thoả thuận khác
Nếu được sự thoả thuận của tất cả các bên trong một hiệp ước
hay một Công ước đã có hiệu lực có quan hệ đến một vấn đề do Công ước đề cập, thì
bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng hiệp ước hoặc
Công ước đó có thể được đưa ra Toà án theo đúng như điều đã thoả thuận.
ĐIỀU 23. Luật áp dụng
Toà án phán quyết về mọi tranh chấp và về mọi đơn từ theo
đúng Điều 293.
MỤC 3. THỦ TỤC
ĐIỀU 24. Việc khởi tố
1. Tuỳ theo trường hợp, các vụ tranh chấp có thể được đưa ra
Toà án hoặc thông qua về một thoả hiệp dựa vào trọng tài hoặc qua đơn thỉnh cầu
gửi cho thư ký Toà án. Trong cả hai trường hợp, nội dung của vụ tranh chấp và
các bên cần được ghi rõ.
2. Thư ký Toà án thông báo ngay thoả hiệp dựa vào trọng tài
hay đơn thỉnh cầu cho các bên hữu quan.
3. Thư ký Toà án cũng thông báo về thoả thiệp dựa vào trọng
tài hay đơn thỉnh cầu nói trên cho các quốc gia thành viên.
ĐIỀU 25. Biện pháp đảm bảo
1. Theo đúng Điều 290, Toà án và Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển có quyền quyết định các biện pháp bảo đảm.
2. Nếu Toà án không mở phiên xử, hoặc nếu số uỷ viên có mặt
thấp hơn số thẩm phán cần thiếu thì các biện pháp bảo đảm sẽ do Viện thủ tục
rút gọn được lập ra theo đúng Điều 15, khoản 3 của Phụ lục này quyết định. Mặc dù
có Điều 15, khoản 4 của chính Phụ lục này, các biện pháp bảo đảm này có thể
được quy định theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp. Các biện
pháp này phải phục tùng sự đánh giá và xem xét lại của Toà án.
ĐIỀU 26. Phiên toà
1. Các phiên toà phải do chính Chánh án Toà án chủ tọa, hay
nếu Chánh án bận, thì do phó chánh án chủ toạ; trong trường hợp cả hai người
bận, thì phiên toà do thẩm phán lâu năm nhất trong số các thẩm phán của Toà có
mặt chủ toạ.
2. Phiên toà phải mở công khai, trừ khi Toà án có quyết định
khác, hoặc trừ khi các bên yêu cầu xử kín.
ĐIỀU 27. Điều hành vụ kiện
Toà án ra các quyết định về việc điều hành vụ kiện và xác
định các hình thức và thời hạn mà trong đó mỗi bên cuối cùng phải trình bày các
chứng cứ của mình; Toà án thi hành mọi biện pháp cần thiết cho việc quản lý các
chứng cứ.
ĐIỀU 28. Vắng mặt
Khi một trong các bên không ra Toà án hay không trình bày
các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Toà án tiếp tục trình tự tố tụng
và ra quyết định. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình bày các lý
lẽ của mình không cản trở trình tự tố tụng. Trước khi ra quyết định, Toà án
phải biết chắc chắn rằng không những Toà án có thẩm quyền xét xử, vụ tranh chấp
mà còn bảo đảm rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế và pháp lý.
ĐIỀU 29. Đa số cần thiết để ra quyết định
1. Toà án ra các quyết định theo đa số các thành viên có
mặt.
2. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau, phiếu của Chánh án hay
của người thay thế Chánh án là lá phiếu quyết định.
ĐIỀU 30. Bản án
1. Bản án phải nêu rõ căn cứ
2. Cần ghi tên các thành viên của Toà án đã tham gia vào bản
án.
3. Nếu bản án không thể hiện hoàn toàn hay từng phần ý kiến
nhất trí của các thành viên Toà án, thì bất kỳ thành viên nào cũng có thể đính
theo bản trình bày ý kiến riêng hay bất đồng của mình.
4. Bản án phải được Chánh án và thư ký Toà án ký. Bản án
được đọc trong một phiên công khai, các bên tham gia tranh chấp phải được báo
trước.
ĐIỀU 31. Việc yêu cầu được tham gia
1. Trong một vụ tranh chấp, khi một quốc gia thành viên cho rằng
một quyền lợi có tính chất pháp lý của mình bị đụng chạm, thì có thể gửi lên
cho Toà án một đơn thỉnh cầu để yêu cầu xin tham gia.
2. Toà án phát biểu ý kiến về đơn thỉnh cầu này.
3. Nếu Toà án chấp nhận đơn thỉnh cầu, thì quyết định liên
quan đến vụ tranh chấp có tính chất bắt buộc đối với quốc gia xin tham gia
trong phạm vi mà quyết định này có quan hệ đến các điểm là nội dung của việc
tham gia.
ĐIỀU 32. Quyền can thiệp và những vấn đề giải thích hay áp
dụng
1. Khi một vấn đề về giải thích hay áp dụng Công ước được
đặt ra, thư ký Toà án lập tức thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên.
2. Trong khuôn khổ của các Điều 21 và 22 của Phụ lục này,
khi việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế được đặt ra, thư ký Toà án
thông báo điều đó cho tất cả các bên tham gia vào điều ước đó.
3. Mỗi bên nói ở các khoản 1 và 2 có quyền tham dự vào vụ
kiện, và nếu bên đó thi hành quyền hạn này, thì nội dung giải thích trong bản
án cũng có tính chất bắt buộc đối với bên đó.
ĐIỀU 33. Tính chất quyết định về hiệu lực bắt buộc của các
phán quyết
1. Phán quyết của Toà án có tính chất tối hậu và tất cả các
bên trong vụ tranh chấp đều phải tuân theo.
2. Phán quyết của Toà án chỉ có tính chất bắt buộc đối với
các bên tranh chấp và đối với trường hợp đã được quyết định.
3.Trong trường hợp có sự tranh cãi về ý nghĩa và phạm vi của
phán quyết, thì Toà án có trách nhiệm giải thích theo yêu cầu của bất kỳ bên
nào.
ĐIỀU 34. Án phí
Nếu Toà án không có quyết định khác, thì mỗi bên phải đảm
nhận phần án phí của mình.
MỤC 4. VIỆN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁY BIỂN
ĐIỀU 35. Thành phần
1. Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển nói
trong Điều 14 của Phụ lục này gồm có 11 thành viên do Toà án lựa chọn trong các
thành viên đã được bầu của Toà án, theo đa số các thành viên đó.
2. Trong việc lựa chọn các thành viên của Viện, sự đại diện cho
các hệ thống pháp luật chủ yếu của thế giới và việc phân chia công bằng về địa
lý phải được bảo đảm. Đại hội đồng của Cơ quan quyền lực có thể định ra các
quyết nghị có tính chất chung về sự đại diện và phân bố nói trên.
3. Các thành viên của Viện được lựa chọn ba năm một lần và
chỉ có thể được lựa chọn thêm một nhiệm kỳ.
4. Viện bầu ra chủ tịch trong số các thành viên của mình.
Chỉ tịch đảm nhận chức trách trong nhiệm kỳ của Viện.
5. Nếu các vụ kiện đang giải quyết chưa xong vào cuối nhiệm
kỳ ba năm của Viện, thì viện phải hoàn thành việc xét xử với thành phần ban đầu
của mình.
6. Khi một ghế của Viện bị trống, Toà án chọn trong số các
thành viên đã được bầu của mình một người kế tục để hoàn thành nhiệm kỳ của
người tiền nhiệm của người ấy.
7. Để lập ra Viện, phải có một số lượng cần thết là bảy người
do Toà án lựa chọn trong các thành viên của mình.
ĐIỀU 36. Các viện ad-hoc (đặc biệt)
1. Viện giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến đáy biển
lập ra một viện ad-hoc (đặc biệt), gồm có ba thành viên trong số thành viên của
mình, để xét xử một vụ tranh chấp nhất định mà viện có trách nhiệm theo đúng
Điều 188, khoản 1, điểm b. Thành phần của Viện này do Viện giải quyết các vụ tranh
chấp liên quan đến đáy biển quyết định, với sự đồng ý của các bên hữu quan.
2. Nếu các bên không thoả thuận về thành phần của viện
ad-hoc (đặc biệt) đã nêu ở khoản 1, thì mỗi bên trong vụ tranh chấp, chỉ định
một thành viên và thành viên thứ 3 được chỉ định qua thoả thuận, hoặc nếu một
bên không chỉ định thành viên, thì Chủ tịch của Viện giải quyết các vụ tranh
chấp liên quan đến đáy biển phải tiến hành ngay việc chỉ định thành viên này
hoặc các thành viên này, lựa chọn trong số các thành viên của Viện, sau khi đã
tham khảo ý kiến của các bên.
3. Các thành viên của viện ad-hoc (đặc biệt) không được làm
việc cho một bên tranh chấp nào, cũng không được là công dân của một quốc gia nào
trong số các quốc gia tranh chấp.
ĐIỀU 37. Quyền đưa vấn đề ra Viện
Viện để ngỏ cho các quốc gia thành viên, cho Cơ quan quyền
lực và các thực thể hay cá nhân nói ở Mục 5 của phần XI.
ĐIỀU 38. Luật áp dụng
Ngoài các quy định của Điều 293, Viện áp dụng:
a) Các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực đã
được thông qua theo đúng Công ước; và
b) Các điều khoản của bất kỳ hợp đồng nào liên quan đến các
hoạt động tiến hành trong vùng, về tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng nói
trên.
ĐIỀU 39. Việc thi hành các quyết định của Viện
Các quyết định của Viện có hiệu lực ở trên lãnh thổ của các
quốc gia thành viên như các quyết định hay lệnh của cơ quan pháp luật cao nhất
của quốc gia thành viên trên lãnh thổ mà ở đó phải thi hành các quyết định nói
trên.
ĐIỀU 40. Việc áp dụng các mục khác của Phụ lục này
1. Các quy định của các mục khác trong Phụ lục này không mâu
thuẫn với mục này được áp dụng cho Viện.
2. Trong việc thi hành các quyền hạn về tư vấn của mình.
Viện dựa theo các quy định của Phụ lục này liên quan đến thủ tục tiến hành trước
Toà án, trong phạm vi mà Viện thấy rằng các quy định này có thể áp dụng được.
MỤC 5. CÁC ĐIỀU SỬA ĐỔI
ĐIỀU 41. Các điều sửa đổi
1. Các điều sửa đổi đối với Phụ lục này, ngoài các điều sửa
đổi liên quan đến Mục 4, chỉ có thể được thông qua theo đúng Điều 313 hoặc bằng
consensus (thoả thuận) tại một hội nghị được triệu tập theo đúng Công ước.
2. Các điều sửa đổi đối với Mục 4 chỉ có thể được thông qua theo
đúng Điều 314.
3. Toà án có thể qua trao đổi bằng văn bản đưa ra cho các
quốc gia thành viên xét các đề nghị sửa đổi đối với Phụ lục này mà Toà án thấy
cần thiết theo đúng khoản 1 và 2.
ĐIỀU 1. Việc khởi tố
Với điều kiện phải tuân thủ Phần XV, bất kỳ bên nào trong
một vụ tranh chấp đều có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng
tài đã trù định trong Phụ lục này bằng một thông báo viết gửi tới bên kia hoặc
hoặc các bên kia trong vụ tranh chấp. Thông báo có kèm theo bản trình bày các
yêu sách và các lý do làm căn cứ cho các yêu sách đó.
ĐIỀU 2. Danh sách các trọng tài
1. Tổng thư ký Liên hợp quốc lập ra và giữ một bản danh sách
các trọng tài. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ định bốn trọng tài có kinh
nghiệm về những vấn đề biển và nổi tiếng nhất về sự công bằng, về năng lực và
liêm khiết. Tên của những người được chỉ định như vậy được ghi rõ trên một bản
danh sách.
2. Vào một thời điểm nào đó, nếu số lượng trọng tài được một
quốc gia thành viên chỉ định và có trong bản danh sách dưới bốn người thì quốc
gia này có quyền tiến hành việc chỉ định bổ sung mà mình có quyền.
3. Tên của một trọng tài được ghi ở trên bản danh sách cho
đến khi quốc gia thành viên đã chỉ định người trọng tài này rút người đó khỏi
danh sách; dĩ nhiên, người trọng tài này phải tiếp tục làm nhiệm vụ trong mọi Toà
trọng tài mà họ được cử cho đến khi thủ tục tiến hành trước toà này kết thúc.
ĐIỀU 3. Thành lập Toà trọng tài
Theo thủ tục được trù định trong Phụ lục này, trừ khi các
bên liên quan có thoả thuận khác, Toà trọng tài được lập ra, như sau:
a) Với điều kiện tuân thủ điểm g, Toà trọng tài gồm có năm
thành viên;
b) Bên nguyên cử một thành viên mà mình tuỳ ý lựa chọn ở
trên bản danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này và người đó có thể là công dân
của mình. Tên của người đó được ghi trong bản thông báo nói trong Điều 1 của
Phụ lục này;
c) Bên bị trong vụ tranh chấp cử trong thời hạn 30 ngày,
tính từ khi nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này một thành viên mà
mình tuỳ ý lựa chọn trên bản danh sách, và người đó có thể là công dân của
mình. Nếu họ không cử người trong thời hạn nói trên, thì bên nguyên có thể yêu
cầu tiến hành việc cử thành viên đó theo đúng điểm c trong hai tuần lễ sau khi
hết thời hạn này;
d) Ba thành viên khác được các bên thoả thuận cử ra. Họ được
các bên tuỳ ý chọn trên bản danh sách và là công dân của các quốc gia thứ ba, trừ
khi các bên có thoả thuận khác. Các bên cử Chánh toà của Toà trọng tài trong số
ba thành viên đó. Nêu trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nói
ở Điều 1 của Phụ lục này, các bên hữu quan không thể thoả thuận về việc chỉ
định một hay nhiều thành viên của Toà mà họ phải cử theo thoả thuận chung hay
là về việc cử Chánh toà, thì theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trong vụ tranh
chấp, cần tiến hành cử 1 người hay những người đó theo đúng điểm e Yêu cầu đó
phải được đưa lên trong hai tuần sau khi hết hạn 60 ngày này;
e) Trừ khi các bên hữu quan thoả thuận giao cho một người
hoặc cho một quốc gia thứ ba do họ lựa chọn tiến hành các việc cử người cần
thiết theo điểm c và d, Chánh án của Toà án quốc tế về luật biển cần tiến hành
việc hành. Nếu Chánh án bận hoặc là công dân của một trong các bên trong vụ tranh
chấp, thì việc cử người giao cho thành viên thâm niên nhất của Toà án quốc tế
về luật biển sẵn sàng làm việc này và không phải là công dân của một trong các
bên hữu quan. Việc cử người tiến hành bằng cách lựa chọn trên bản danh cách nói
ở Điều 2 của Phụ lục này trong một thời hạn là 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn
yêu cầu và có tham kháo ý kiến của các bên. Các thành viên được cử như thế cần phải
thuộc các quốc tịch khác nhau, không được làm việc cho một bên nào trong vụ
tranh chấp; họ không trú ngụ thường xuyên ở trên lãnh thổ của một trong các bên
hữu quan đó và không phải là công dân của một bên nào;
f) Mọi ghế bị trống đều được cử người thay thế theo các quy
định cho lần bổ nhiệm đầu tiên ;
g) Các bên cùng một phía cùng nhau cử một thành viên của Toà
qua thoả thuận chung. Khi có nhiều bên đối lập nhau hay trong trường hợp không
thống nhất về điểm liệu các bên có đứng vào cùng một phía không, thì mỗi bên
trong số họ cử một thành viên của Toà. Số lượng thành viên của Toà do các bên
cử riêng rẽ bao giờ cũng phải ít hơn một người so với số lượng các thành viên
của Toà được các bên hữu quan cùng cử ;
h) Các điểm a đến f được áp dụng đến hết mức có thể vào các
vụ tranh chấp xảy ra có quá hai bên hữu quan trở lên.
ĐIỀU 4. Các chức năng của Toà trọng tài
Một toà trọng tài được thành lập theo Điều 3 của Phụ lục này
thi hành các chức năng của mình theo đúng Phụ lục này và quy định khác của Công
ước.
ĐIỀU 5. Thủ tục
Trừ khi các bên có thoả thuận khác, Toà trọng tài tự quy
định thủ tục của mình bằng cách cho mỗi bên có khả năng bảo vệ các quyền của
mình và trình bày căn cứ của mình.
ĐIỀU 6. Những nghĩa vụ của các bên
Các bên tham gia tranh chấp tạo điều kiện dễ dàng cho Toà
trọng tài thực hiện nhiệm vụ của mình và, đặc biệt là, theo đúng pháp luật của
mình và bằng tất cả các phương tiện thuộc quyền sử dụng của mình, cần phải:
a) Cung cấp cho Toà mọi tài liệu, các điều kiện dễ dàng và
các thông tin thích hợp; và b) Cho Toà, khi điều đó là cần thiết, có khả năng dẫn
ra và nghe người làm chứng hoặc các chuyên gia và đến tại chỗ.
ĐIỀU 7. Lệ phí
Trừ khi Toà trọng tài có quyết định khác vì có những hoàn
cảnh đặc biệt của vụ việc, lệ phí của Toà, kể ca thù lao cho các thành viên của
Toà, phải do các bên trong vụ tranh chấp chịu ngang nhau.
ĐIỀU 8. Đa số cần thiết phải thông qua các bản án
Các quyết định của Toà trọng tài được thông qua theo đa số
các thành viên của Toà. Sự vắng mặt hoặc bỏ phiếu trắng của dưới một nửa số
thành viên không cản trở Toà ra quyết định. Trong trường hợp số phiếu ngang
nhau, lá phiếu của Chánh toà là lá phiếu quyết định.
ĐIỀU 9. Vắng mặt
Khi một trong số các bên trong vụ tranh chấp không ra Toà hoặc
không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Toà tiếp tục
trình tự tố tụng và phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình
bày các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố tụng. Trước khi ra phán
quyết, Toà trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng không những Toà có thẩm quyền
xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc chắn rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế
pháp lý.
ĐIỀU 10. Bản án
Bản án của Toà trọng tài được giới hạn ở nội dung của vụ
tranh chấp và phải nêu căn cứ. Bản án nêu tên của các thành viên của Toà trọng
tài đã tham gia xét xử và thời gian ra bản án. Bất kỳ thành viên nào của Toà
cũng có thể đính thêm vào bản án trình bày ý kiến riêng hoặc bất đồng của mình.
ĐIỀU 11. Tính chất tối hậu của bản án
Bản án có tính chất tối hậu và không được kháng cáo, trừ khi
các bên trong vụ tranh chấp phải tuân theo bản án này.
ĐIỀU 12. Giải thích hoặc thi hành bản án
1. Bất kỳ tranh cãi nào có thể xảy ra giữa các bên trong vụ
tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay cách thi hành bản án, đều có thể
được bên này hoặc bên kia đưa ra để Toà trọng tài đã tuyên án quyết định. Vì
mục đích ấy, các ghế bị trống đều được cử người thay theo phương pháp được trù
định cho việc bổ nhiệm ban đầu các thành viên của Toà.
2. Nếu tất cả các bên trong vụ tranh chấp thoả thuận, thì
bất kỳ tranh cãi nào thuộc loại này đều có thể được đệ trình lên một Toà khác
theo đúng Điều 287.
ĐIỀU 13. Áp dụng đối với các thực thể không phải là các quốc
gia thành viên
Phụ lục này được áp dụng mutatis mutandis (với những thay
đổi cần thiết về chi tiết) cho mọi vụ tranh chấp nào liên quan đến các thực thể
không phải là quốc gia thành viên.
ĐIỀU 1. Việc khởi tố
Với điều kiện tuân thủ phần XV, mọi bên tham gia vào một vụ
tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các điều khoản của Công
ước liên quan đến: 1- Việc đánh bắt hải sản, 2- Việc bảo vệ và gìn giữ môi
trường biển, 3- Việc nghiên cứu khoa học biển, hoặc 4- Hàng hải, kể cả nạn ô
nhiễm do các tàu thuyền hay do nhận chìm, có thể đưa vụ tranh chấp ra giải
quyết theo thủ tục trọng tài đặc biệt được trù định trong Phụ lục này bằng
thông báo viết gửi tới bên kia hoặc các bên kia trong vụ tranh chấp; thông báo
có kèm theo bản trình bày các yêu sách và các căn cứ của các yêu sách đó.
ĐIỀU 2. Danh sách các chuyên viên
1. Một danh sách chuyên viên được lập ra và được duy trì cho
mỗi lĩnh vực sau đây: 1- Việc đánh bắt hải sản, 2- Việc bảo vệ và gìn giữ môi
trường biển, 3- Việc nghiên cứu khoa học biển, 4- Hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm
do tàu thuyền hay do nhận chìm gây ra.
2. Về mặt đánh bắt hải sản, danh sách chuyên viên do Tổ chức
lương thực và nông nghiệp của Liên hợp quốc lập ra và duy trì; về mặt bảo vệ và
phòng giữ môi trường biển, do Chương trình của Liên hợp quốc về môi trường; về
mặt hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm do tàu thuyền hay do nhận chìm gây ra, thì do
Tổ chức hàng hải quốc tế hoặc, tuỳ theo mỗi một trường hợp, do cơ quan phụ trợ
thích hợp mà Tổ chức, Chương trình hoặc Uỷ ban nói trên đã uỷ quyền thực hiện
chức năng này.
3. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ định trong một lĩnh vực
đó hai chuyên viên có năng lực được xác minh và thừa nhận chung về pháp lý,
khoa học hay kỹ thuật trong lĩnh vực nói trên và là những người nổi tiếng công minh,
liêm khiết nhất. Trong mỗi lĩnh vực, bản danh sách có tên những người được chỉ
định đó.
4. Ở vào một thời điểm nào đó, nếu số lượng chuyên viên do
một quốc gia thành viên chỉ định và thể hiện trên một bản danh sách dưới hai
người, thì quốc gia thành viên này có thể tiến hành việc chỉ định bổ sung và họ
có quyền.
5. Tên của một chuyên viên được ghi trên bản danh sách cho
đến khi bị bên đã chỉ định chuyên viên đó rút đi, dĩ nhiên là chuyên viên này
phải tiếp tục thi hành nhiệm vụ của mình trong mọi Toà trọng tài đặc biệt cho
đến lúc thủ tục tố tụng trước Toà này đã kết thúc.
ĐIỀU 3. Cơ cấu của Toà trọng tài đặc biệt
Theo thủ tục được trù định trong Phụ lục này, trừ khi các
bên có thoả thuận khác, Toà trọng tài đặc biệt được cấu thành như sau:
a. Với điều kiện tuân thủ điểm g, Toà trọng tài đặc biệt gồm
có năm thành viên;
b. Bên nguyên cử hai thành viên được lựa chọn tuỳ ý ở bản
danh sách hay các bản danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này liên quan đến nội
dung của vụ tranh chấp, một trong hai người này có thể là công dân của nước đó.
Tên của các thành viên được cử như vậy, được ghi trong thông báo nói ở Điều 1
của Phụ lục này;
c. Bên bị trong vụ tranh chấp, trong thời hạn 30 ngày tính
từ ngày nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này, cử hai thành viên do
họ tuỳ ý chọn trên danh sách hay các danh sách liên quan đến nội dung của vụ tranh
chấp, và trong hai người đó, một người có thể là công dân của nước ấy. Nếu bên
bị không cử người trong thời hạn này, thì bên nguyên có thể trong hai tuần sau
khi hết hạn, yêu cầu tiến hành việc cử người theo đúng điểm e;
d. Các bên thoả thuận cử Chánh toà trọng tài đặc biệt được
lựa chọn tuỳ ý trên danh sách thích hợp và là công dân của một nước thứ ba, trừ
khi các bên có thoả thuận khác. Trong một thời hạn là 30 ngày kể từ ngày nhận
được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này, nếu các bên không thể thoả thuận
việc cử Chánh toà, thì việc cử này được tiến hành theo đúng điểm e theo yêu cầu
của bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp. Yêu cầu đó được gửi đến trong vòng hai
tuần sau khi hết thời hạn kể trên;
e. Trừ khi các bên thoả thuận giao phó cho một người hay một
quốc gia thứ ba do họ lựa chọn, tiến hành việc cử người, Tổng thư ký Liên hợp quốc
tiến hành việc cử các uỷ viên cần thiết này trong thời hạn 30 ngày kể từ khi
nhận được yêu cầu theo các điểm c hay d. Việc của người này được tiến hành bằng
cách lựa chọn ở trên bản danh sách hay các bản danh sách chuyên viên thích hợp
nói ở Điều 2 của Phụ lục này, có trao đổi với các bên tranh chấp và với tổ chức
quốc tế thích hợp. Các uỷ viên được cử như vậy phải thuộc quốc tịch khác nhau, không
được làm việc cho một bên nào trong vụ tranh chấp; họ không được trú ngụ thường
xuyên ở trên lãnh thổ của một trong số các bên trong vụ tranh chấp và không
phải là công dân của một trong các bên này;
f. Mọi ghế bị trống đều được cử người thay theo cách thức
được trù định cho lần cử đầu tiên;
g. Các bên cùng đứng về một phía cũng nhau thoả thuận cử hai
thành viên của Toà. Khi có nhiều bên đối lập nhau, hay trong trường hợp không
thống nhất về điểm liệu các bên có cùng một phía hay không, thì mỗi bên trong
số họ cử một thành viên của Toà;
h. Các điểm a đến f được áp dụng để hết mức có thể đối với
các vụ tranh chấp có quá hai bên hữu quan trở lên.
ĐIỀU 4. Các quy định chung
Các Điều 4 đến 13 của Phụ lục VII được áp dụng mutatis mutadis
(với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) vào thủ tục trọng tài đặc biệt nói ở
trong Phụ lục này.
ĐIỀU 5. Việc xác lập các sự kiện
1. Các bên của một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải
thích hay áp dụng các quy định của Công ước về: 1- Việc đánh bắt hải sản, 2-
Việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, 3- Hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm môi
trường do tàu hay do nhận chìm gây ra, có thể, vào bất cứ lúc nào, thoả thuận
yêu cầu một Toà trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Điều 3 của Phụ lục
này tiến hành một cuộc điều tra và xác lập các sự kiện từ nguồn gốc của vụ
tranh chấp.
2. Trừ khi các bên có thoả thuận khác, những sự kiện do Toà
trọng tài đặc biệt xác nhận theo khoản 1 được coi là những chứng cứ đã được xác
minh giữa các bên hữu quan.
3. Nếu tất cả các bên trong vụ tranh chấp yêu cầu thì Toà
trọng tài đặc biệt có thể thảo ra các khuyến nghị; những khuyến nghị này không
có giá trị quyết định mà chỉ là cơ sở để các bên tiến hành xem xét lại những
vấn đề làm phát sinh ra tranh chấp.
4. Với điều kiện tuân thủ khoản 2, Toà trọng tài đặc biệt
cần tuân thủ Phụ lục này, trừ khi các bên có thoả thuận khác.
ĐIỀU 1. Việc sử dụng thuật ngữ "tổ chức quốc tế"
Trong Điều 305 và Phụ lục này, thuật ngữ "các tổ chức
quốc tế" được hiểu là một tổ chức liên chính phủ được các quốc gia lập
nên, các quốc gia này trao cho tổ chức đó thẩm quyền về các vấn đề mà Công ước
đề cập, kể cả thẩm quyền ký kết các hiệp ước về vấn đề này.
ĐIỀU 2. Việc ký kết
Một tổ chức quốc tế có thể ký Công ước, nếu đa số các quốc
gia hội viên của tổ chức này là những bên ký kết Công ước, một tổ chức quốc tế
ra một tuyên bố nói rõ các vấn đề thuộc phạm vi Công ước mà các quốc gia hội
viên ký Công ước đã trao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế này, cũng như tính chất
và phạm vi của thẩm quyền này.
ĐIỀU 3. Việc xác nhận chính thức và việc gia nhập
1. Một tổ chức quốc tế có thể gửi lưu chiểu một văn bản xác
nhận chính thức hay gia nhập, nếu đa số các quốc gia hội viên của nó gửi hoặc
đã gửi lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay gia nhập của mình.
2. Văn bản của tổ chức quốc tế gửi lưu chiểu lên cần phải có
các cam kết và tuyên bố đã quy đinh ở Điều 4 và 5 của Phụ lục này.
ĐIỀU 4. Phạm vi tham gia, các quyền và nghĩa vụ
1. Đối với các vấn đề mà các quốc gia hội viên và là thành
viên của Công ước đã giao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế thì văn bản xác nhận
chính thức hoặc gia nhập do tổ chức quốc tế đó gửi lưu chiểu cần có lời cam kết
chấp nhận các quyền và nghĩa vụ đã được trù định trong Công ước đối với các
quốc gia.
2. Một tổ chức quốc tế là thành viên của Công ước trong phạm
vi các giới hạn thẩm quyền được xác định trong các tuyên bố, thông tin hoặc
thông báo nói ở Điều 5 của Phụ lục này.
3. Đối với các vấn đề đã được các quốc gia hội viên là thành
viên của Công ước trao thẩm quyền cho thì một tổ chức quốc tế sẽ sử dụng các
quyền và làm tròn nghĩa vụ, mà lẽ ra theo Công ước là những quyền và nghĩa vụ
của các quốc gia này. Các quốc gia hội viên của một tổ chức quốc tế không sử dụng
thẩm quyền của mình mà trao cho tổ chức này.
4. Không thể có trường hợp nào mà sự tham gia của một tổ
chức quốc tế lại dẫn đến một sự đại diện cao hơn sự đại diện mà các quốc gia
hội viên là thành viên của Công ước có thể đòi hỏi. Quy định này đã được áp
dụng, đặc biệt là đối với các quyền ra các quyết định.
5. Việc tham gia của một tổ chức quốc tế không đem lại cho
các quốc gia hội viên của tố chức đó không phải là thành viên của Công ước một
quyền nào do Công ước trù định.
6. Trong trường hợp có tranh chấp giữa những nghĩa vụ thuộc
bổn phận của một tổ chức quốc tế theo Công ước và những nghĩa vụ thuộc bổn phận
của tổ chức này theo điều ước đã thành lập ra nó hoặc theo mọi văn bản có liên
quan, thì các nghĩa vụ do Công ước quy định có giá trị cao hơn.
ĐIỀU 5. Các tuyên bố, thông báo và thông tin
1. Tài liệu xác nhận chính thức hoặc gia nhập của một tổ
chức quốc tế cần có một tuyên bố xác định rõ các vấn đề thuộc phạm vi Công ước
mà các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước đã trao thẩm quyền cho tổ chức
quốc tế này.
2. Một quốc gia hội viên của một tổ chức quốc tế, khi phê
chuẩn hay gia nhập Công ước, hoặc khi tổ chức quốc tế gửi lưu chiểu văn kiện
xác nhận chính thức hay gia nhập, phải làm một tuyên bố xác định các vấn đề đề
cập trong Công ước mà tổ chức đã được trao thẩm quyền, vào ngày muộn nhất trong
hai thời điểm nói trên.
3. Các quốc gia thành viên là hội viên của một tổ chức quốc
tế, thành viên của Công ước được coi như có thẩm quyền về tất cả các vấn đề
thuộc phạm vi của Công ước mà các quốc gia nói trên đã không ghi một cách rõ
ràng rằng, họ đã trao thẩm quyền cho tổ chức bằng một tuyên bố, thông tin hoặc
thông báo làm theo đúng điều này.
4. Tổ chức quốc tế và các quốc gia hội viên là thành viên
của Công ước thông báo ngay cho người lưu chiểu bất kỳ sự sửa đổi nào về việc
phân chia các thẩm quyền được ghi rõ trong các tuyên bố nói ở khoản 1 và 2, kể
cả những việc chuyển giao thẩm quyền mới.
5. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể yêu cầu một tổ
chức quốc tế và các quốc gia hội viên của tổ chức này là thành viên của Công
ước, chỉ rõ ai trong tổ chức hay trong các quốc gia hội viên này có thẩm quyền
đối với một vấn đề nhất định được đặt ra. Tổ chức này và các quốc gia hội viên
hữu quan thông báo tình hình này, trong một thời hạn hợp lý. Họ cũng có thể tự
mình chủ động thông báo một tình hình đó.
6. Tính chất và vi phạm của những thẩm quyền được chuyển
giao cần phải được xác định rõ trong các tuyên bố, thông tin và thông báo làm
theo điều này.
ĐIỀU 6. Trách nhiệm
1. Các bên có thẩm quyền theo Điều 5 của Phụ lục này có
trách nhiệm về mọi thiếu sót đối với những nghĩa vụ nảy sinh từ Công ước và đối
với tất cả các vi phạm khác đối với Công ước.
2. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể yêu cầu một tổ
chức quốc tế hoặc các quốc gia hội viên của tổ chức đó là thành viên của Công
ước chỉ rõ người có trách nhiệm trong một trường hợp riêng biệt. Tổ chức và các
quốc gia hội viên hữu quan cần phải thông báo tình hình này. Nếu không thực
hiện điều này trong một thời gian hợp lý, hoặc nếu họ thông báo các thông tin trái
ngược nhau, thì họ phải cùng nhau và liên đới chịu trách nhiệm.
ĐIỀU 7. Giải quyết các vụ tranh chấp
1. Khi gửi lưu chiểu văn kiện xác nhận chính thức hay gia
nhập của mình, hoặc vào bất kỳ thời điểm nào tiếp sau, một tổ chức quốc tế có
quyền tự do lựa chọn, qua tuyên bố bằng văn bản, một hoặc nhiều phương pháp đã
nêu ở Điều 287, khoản 1 điểm a, c, và để giải quyết các tranh chấp liên quan đến
việc giải thích hoặc áp dụng Công ước.
2. Phần XV được áp dụng mutatis mutadis (với những thay đổi
cần thiết về chi tiết) cho bất kỳ vụ tranh chấp nào giữa các thành viên của
Công ước mà một hoặc nhiều thành viên đó là các tổ chức quốc tế.
3. Khi một tổ chức quốc tế và một hoặc nhiều quốc gia hội
viên của tổ chức này đứng về một phía, thì coi như tổ chức đã chấp nhận các thủ
tục giải quyết tranh chấp như các quốc gia này; trong trường hợp mà một trong
số các quốc gia này chỉ chọn Toà án quốc tế theo Điều 287, thì tổ chức và quốc
gia hội viên này coi như đã chấp nhận trọng tài theo thủ tục trù định ở Phụ lục
VII, trừ khi các bên tham gia vào vụ tranh chấp thoả thuận lựa chọn một phương
pháp khác.
ĐIỀU 8. Áp dụng Phần XVII
Phần XVII được áp dụng mutatis mutadis (với những thay đổi
cần thiết về chi tiết) cho các tổ chức quốc tế, với điều kiện tuân thủ các quy
định sau đây
a. Văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia nhập của một tổ
chức quốc tế không được tính đến trong việc áp dụng Điều 303, khoản 1;
b. i. Một tổ chức quốc tế có quyền đặc biệt để hành động
theo các Điều 312 đến 315, nếu tổ chức này có thẩm quyền theo Điều 5 của Phụ
lục này đối với toàn bộ vấn đề nói trong điều sửa đổi;
ii. Khi một tổ chức quốc tế có thẩm quyền theo Điều 5 của
Phụ lục này đối với toàn bộ vấn đề trong điều sửa đổi, thì văn kiện xác nhận
chính thức hoặc gia nhập của tổ chức này liên quan đến điều sửa đổi nói trên
được coi như văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập của từng quốc gia hội viên là
thành viên của Công ước trong việc áp dụng Điều 316, các khoản 1, 2 và 3;
iii. Trong tất cả các trường hợp khác, văn kiện xác nhận
chính thức hoặc gia nhập của một tổ chức quốc tế không được tính đến trong việc
áp dụng Điều 316, khoản 1 và 2;
c. i. Trong Điều 317, một tổ chức quốc tế mà trong số các
hội viên của nó có một quốc gia thành viên của Công ước và tổ chức quốc tế đó
vẫn tiếp tục thoả mãn các điều kiện đã được trù định trong Điều 1 của Phụ lục
này, thì tổ chức quốc tế này không thể từ bỏ Công ước;
ii. Một tổ chức quốc tế phải từ bỏ Công ước, nếu trong số
hội viên của nó không còn một quốc gia nào là thành viên của Công ước hoặc nếu
tổ chức này đã thôi không thoả mãn các điều kiện đã được trù định trong Điều 1
của Phụ lục này. Sự từ bỏ đó có hiệu lực ngay lập tức.