Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2017

Tệ Nạn Chụp Mũ Trong Cộng Đồng Người Việt Và Luật Pháp

LS. Đỗ Quí Dân
Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017

LGT: Ở hải ngoại, có khoảng trên dưới 10 kẻ chuyên đi chụp mũ người khác là cộng sản, Việt gian, hay là tai sai của cộng sản. Nhóm người này thường đã lớn tuổi, ăn không ngồi rồi, có lẽ mang nợ máu với cộng sản, cực kỳ hận thù CS, nên thiếu sự khôn ngoan. Không trả thù CS trực tiếp được, nhóm người cực đoan coi những người khác không chống CS một cách thiển cận như mình là kẻ thù và nghi ngờ tất cả những người chống CS ở trong nước bị trục xuất ra hải ngoại đều là điệp viên của CS, mặc dù chính phủ của những nước tự do đã biết rõ về họ và đã không ngần ngại cưu mang họ. Ngay cả những chuyên viên thiện nguyện về Việt Nam giúp chữa trị bệnh tật cho người nghèo cũng bị chống đối. 
 
Nhóm người chống cộng cực đoan gồm một vài kẻ vô học như NLGO, NK, TNHH, và vài kẻ có học nhưng thiếu suy luận như LDS, NPL, TVT. Một số khác vô học, không biết viết để trình bầy ý kiến, chỉ biết chửi bới tục tĩu.  Bọn người này thường dùng tên giả để ném đá dấu tay. Chiến thuật chung của cả ba nhóm này dùng lá cờ Vàng để thử lửa. Chiêu bài của ba nhóm này là triệt hạ CS và mục tiêu của họ là thay thế chế độ CS bằng một chế độ độc tài khác. Quan sát cách hành sử giống hệt CS của ba nhóm này, ai cũng có thể đi đến kết luận này một cách dễ dàng. Họ thế không đội trời chung với CS và hô hào lật độ chế độ tàn ác này nhưng không có một tấc sắt trong tay.  
 
Tệ Nạn Chụp Mũ Trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại Dưới Cái Nhìn Của Cộng Đồng Và Luật Pháp
 
“Chụp mũ cộng sản" cho người khác là một hành động gây thiệt hại lớn lao cho cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Hành động chụp mũ là một hành động hèn hạ, tiểu nhân, gây tổn hại cho chính nghĩa, cho tự do trong suốt 41 năm qua. Cộng đồng Việt ở hải ngoại cần phải lên tiếng nói và tìm những biện pháp hữu hiệu để đối phó với tệ nạn này.
 
Nếu ở Việt Nam ngày nay, người dân, báo chí, những nhà tranh đấu cho nhân quyền và dân quyền bị công an, bị nhà nước dùng những điều luật vô lý, phi đạo đức, phản nhân quyền (như Điều luật 88 về Hình sự) để kiểm soát, kiềm chế, và cấm đoán những sinh hoạt hợp pháp, thì một đám người Việt ở hải ngoại, vì lý do này hoặc lý do khác, áp dụng phương pháp chụp mũ cộng sản lên những người lương thiện, vô tội để ngăn trở những sinh hoạt, công việc có ích lợi cá nhân, cộng đồng của họ. 
 
Mặc dù những thành phần hay chụp mũ cộng sản vào người khác chỉ là một thiểu số rất nhỏ trong cộng đồng người Việt hải ngoại, hậu quả do việc chụp mũ của họ đã đem tới những thiệt hại rất nhiều cho cộng đồng người Việt. Cái thiệt hại lớn nhất là làm mất đi chính nghĩa của cộng đồng trong công việc tranh đấu cho nhân quyền, tự do và dân chủ.     
 
Khi chụp mũ người khác, ít khi nào họ dám ra mặt công khai, chỉ giấu mặt, phổ biến những bài viết nặc danh, hoặc giấu giếm tung tích dưới một tên hiệu khác, hoặc thúc đẩy một số người kém suy nghĩ làm công việc chụp mũ giùm mình. Riêng cái phong cách này đã chứng tỏ cái tính chất tiểu nhân, hèn hạ, và nguy hiểm của việc chụp mũ.  
 
Một số cá nhân, khi chụp mũ người khác, có lối suy nghĩ như sau: “Mình chẳng việc gì phải sợ cả. Mình trên răng dưới …, chửi chúng nó cho sướng, chúng nó làm gì được mình. Mình cùi đâu sợ lở!”    
 
 “Cùi không sợ lở.” Nói thế tội nghiệp cho người bị phong cùi, tội nghiệp cho những người bị căn bệnh trầm kha để phải chịu đau đớn, khổ sở cả đời. Các thành phần chuyên chụp mũ người khác không bị ghẻ lở thân xác, không bị phong hủi, nhưng họ ghẻ lở tinh thần, phong hủi trong cách suy nghĩ, bẩn thỉu trong hành động. Họ trở thành những kẻ bị ám ảnh bởi những âm mưu, tính toán.  Họ để những âm mưu, tính toán đó gặm nhấm đầu óc họ, để họ trở nên thiếu sáng suốt, thiếu cân nhắc, để họ dần dà mất nhân tính. Họ chửi rủa, thoá mạ cộng sản, nhưng không biết rằng chính họ cũng đang áp dụng những phương pháp người cộng sản dùng để khủng bố dân. Họ chụp mũ người khác là cộng sản, là tiếp tay với cộng sản, là làm lợi cho cộng sản, nhưng chính họ đang làm hại cộng đồng và tiếp tay cho cộng sản làm cộng đồng người Việt tự do bị phân tán, làm giảm sức mạnh của cộng đồng, làm cản trở những nỗ lực tranh đấu cho chính nghĩa, tự do. Chính họ, chính những kẻ chụp mũ cộng sản lên đầu người khác là những kẻ thực sự làm lợi cho chế độ cộng sản. Chính họ là những “tội đồ của dân tộc”.    
 
Những kẻ chụp mũ thường dùng những luận điệu nào để lên án các nạn nhân của họ? Họ dùng những tin đồn thất thiệt, thu thập một số dữ kiện, viết bài tố cáo nạn nhân là cộng sản hoặc tay sai cho cộng sản rồi sử dụng một danh sách email mà họ có để phổ biến bài viết chụp mũ các nạn nhân.  Đôi khi họ gan lì hơn, cho đăng lên báo bài viết đó.  Những “dữ kiện", “bằng chứng" trong những bài viết chụp mũ kia đại khái có thể được xếp loại như sau.
 
1. Nạn nhân có giao thiệp với nhà nước cộng sản. Nhiều khi chỉ cần giao thiệp với những người giao thiệp với cộng sản cũng đủ có tội đối với họ. Kết luận này, dưới luật pháp Hoa kỳ, là thiếu căn cứ, thiếu cơ sở luận lý. Người Hoa Kỳ tôn trọng quyền tự do giao thiệp, tự do quen biết, tự do hội họp (freedom of association). Là người ở xứ tự do, ta có quyền giao tiếp bất cứ ai, dù người đó có quan niệm chính trị khác với quan niệm của chính quyền tự do, của xã hội, của cá nhân mình. Ta có thể gặp gỡ, tụ họp với bất cứ ai. Lên án người khác dựa vào sự quen biết, gặp mặt, hoặc giao thiệp với những nhân vật có liên quan đến nhà nước cộng sản là tước đi quyền tự do giao thiệp, tự do tụ họp của người khác. Muốn tranh đấu cho tự do, ta phải hiểu thế nào là tự do và phải biết tôn trọng tự do của người khác. Không ai có thể quy tội cho người khác trên căn bản giao tiếp (guilty by association) được. Quy tội như thế là phỉ báng, là vu khống.
 
Nếu sự giao tiếp giữa nạn nhân và nhân vật có liên quan đến nhà nước cộng sản làm hại cho cộng đồng, cho công cuộc đấu tranh cho nhân quyền, tự do và dân chủ thì chúng ta có thể bảo nhau chứ không thể hành động chụp mũ.  Người Việt tỵ nạn cộng sản chẳng mấy ai muốn sống dưới chế độ cộng sản, những thành phần thiên tả ngày xưa giờ cũng đã chán ngán nhà cầm quyền tham nhũng và thối nát của Việt Nam.  Chúng ta bảo nhau thì nên, nhưng tuyệt đối không dùng những thủ đoạn hèn hạ, tiểu nhân để gây chia rẽ, làm sứt mẻ tình đồng hương, làm nản lòng những người muốn đóng góp cho cộng đồng.    
 
Suy luận theo lối của những kẻ chụp mũ thì tất cả những ai về Việt Nam sau 1975 đều là Cộng Sản hoặc tiếp tay cho cộng sản. Vì họ vừa xuống phi trường đã phải gặp gỡ, “làm việc” với nhân viên hải quan cộng sản. Họ sẽ phải đem hộ chiếu (passport) trình cho nhà nước cộng sản. Và dĩ nhiên họ phải tiêu tiền ở đất cộng sản, làm lợi cho nhà nước cộng sản. Tất cả những ai phải làm việc với nhà nước Việt Nam, những người trong sứ quán Hoa Ky, trong những cơ sở kinh doanh làm việc ở Việt Nam, sẽ đều là cộng sản!     
 
 Không một toà án nào ở Hoa kỳ chấp nhận lối suy luận này. Vì thế, khi bị chụp mũ là cộng sản vì lý do quen biết, trao đổi, làm ăn với các đối tác ở Việt Nam, ngay cả với những đối tác trong chính quyền, nạn nhân có một cơ sở vững chắc để truy tố những kẻ chụp mũ ra trước pháp luật.    
 
2. Nạn nhân làm từ thiện ở Viêt Nam, làm “văn hoá” ở Mỹ, có lợi cho cộng sản. Những kẻ chụp mũ hay chỉ trích những phái đoàn y sĩ về chữa bệnh, giải phẫu cho người nghèo ở Việt Nam, những hội từ thiện, những cơ quan phi chính phủ (NGO-non governmental organization), những cơ quan bất vụ lợi (ngày nay gọi là phi lợi nhuận – non profit organization). Họ viện lý do là những hội này, các thành viên của những hội này, tiếp tay cho cộng sản vì đây là công việc của nhà nước cộng sản chứ không phải là công việc của người hải ngoại. Làm việc “thay thế” cho nhà nước cộng sản là tiếp tay cho cộng sản, và do đó là cộng sản!     
 
Các kẻ chụp mũ thường phê phán người cộng sản là bất nhân. Đi chữa bệnh cho người nghèo, nuôi trẻ em, giúp người già, cứu trợ người tàn tật là những việc làm nhân nghĩa. Tố cáo những thành viên của những hội từ thiện là cộng sản tức là gián tiếp đề cao cộng sản nhân nghĩa, trái ngược với những chỉ trích, chửi rủa mà đám người chụp mũ hay áp dụng.     
 
Về phương diện pháp lý, chụp mũ kiểu này giúp nạn nhân đủ yếu tố để truy tố thủ phạm trước toà. Không có toà án Hoa kỳ nào chấp nhận lối suy luận này của kẻ chụp mũ. Nói như họ, thì các cơ quan Hồng Thập Tự khắp nơi đều có thể là cộng sản, là tay sai của những nước độc tài, khủng bố. Những suy luận này, nói theo lối người bản xứ Hoa kỳ, chỉ đáng bị “vứt ra khỏi cửa”.    
 
3. Nạn nhân hay ca tụng cộng sản, hoặc ca tụng những kẻ “phản động”. Trường hợp nhạc Trịnh Công Sơn là trường hợp điển hình. Rất nhiều người vì yêu nhạc Trịnh, đứng ra tổ chức những buổi văn nghệ hát nhạc Trịnh, đã bị chụp mũ là cộng sản. Lý do: Trịnh công Sơn thân cộng, viết nhạc “làm lợi cho cộng sản”, những ai tổ chức sinh hoạt có nhạc Trịnh phải là những kẻ thân cộng, tiếp tay cho cộng sản.
 
Nói thế thì chắc phần lớn của cộng đồng Việt sẽ thành cộng sản, sẽ “mang tội” tiếp tay cho cộng sản. Một câu hỏi phải được đặt ra cho kẻ chụp mũ: có phải người tự do tuyệt đối không được ca tụng những tác phẩm của người thân cộng, của đảng viên cộng sản? Vậy họ giải thích thế nào về việc quốc ca Việt Nam do một đảng viên đảng công sản sáng tác? Họ giải thích thế nào về việc người trong Nam vẫn yêu chuộng thơ Thế Lữ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên?
 
Lối suy nghĩ này không những cực đoan mà còn ấu trĩ. Trước pháp luật Mỹ, chụp mũ kiểu này sẽ bị coi như phỉ báng. Không toà án nào chấp nhận lối suy luận này được.    
 
4. Nạn nhân kinh doanh, trao đổi với Việt Nam, do đó làm lợi cho cộng sản, tiếp tay cho cộng sản. “Lý tưởng” của những kẻ chụp mũ là không mua bán, trao đổi với bất cứ ai có quan hệ đến nhà nước cộng sản.  Họ quên là người dân Mỹ, kể cả họ, tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm của Trung Hoa, ông trùm cộng sản. Nếu tiêu thụ hàng hoá Trung Hoa là làm giàu cho cộng sản ngoại bang, làm cho Trung Hoa mạnh hơn để có nhiều phương tiện thôn tính bờ cõi nước Việt hơn, và do đó là tiếp tay cho cộng sản, cho ngoại bang, thì có lẽ toàn thể cộng đồng Việt ở Hoa Kỳ đang tiếp tay cho cộng sản, cho ngoại bang xâm lấn Việt Nam!     Một lần nữa, cái lối suy luận này không những cực đoan mà còn vô lý. Nói đúng hơn, đây là lý luận ngu xuẩn. Nạn nhân bị chụp mũ dưới dạng này rất dễ thành công khi truy tố kẻ chụp mũ trước toà án.    
 
 5. Nạn nhân tán đồng ý kiến hoặc gặp gỡ những người ngày trước đã là đảng viên cộng sản.  Những người này, giờ đây dù làm gì đi nữa, vẫn tiếp tục là cộng sản. Nếu họ tỏ thái độ chống cộng, đó chỉ là họ đóng kịch, giả tạo. Những ai tiếp xúc với họ, tán đồng với họ, đều là cộng sản.     
 
 Đây là trường hợp của Dương Thu Hương, Bùi Tín, và những người tương tự. Những người này đã từng là đảng viên trung kiên của cộng sản, đã là “tội đồ của dân tộc” thì không thể cho họ đứng chung hàng ngũ với người quốc gia được! Những ai đã đọc Dương Thu Hương hay Bùi Tín gần đây sẽ thấy họ là những cây bút đả kích cộng sản hữu hiệu, vì ít ra họ hiểu nhà nước cộng sản hơn người miền Nam. Đả kích Dương Thu Hương, Bùi Tín chỉ là đả kích vì tư thù, chứ không thể nói vì lợi cho cuộc tranh đấu của người tự do. Chụp mũ những ai tán đồng với họ là hành động khủng bố, áp bức những người đó.     
 
 Trước toà án Hoa kỳ, nạn nhân bị phỉ báng, chụp mũ là cộng sản chỉ vì tán đồng với những người như Dương Thu Hương, Bùi Tín, sẽ có một cơ sở luận lý vững chắc để thắng kiện, để đòi được bồi thường.     
 
 Kẻ thua kiện sẽ phải bồi thường: bồi thường về tổn thất, thiệt hại cho nạn nhân, bồi thường tượng trưng, bồi thường vì nhu cầu xã hội phải trừng phạt kẻ cố tình chụp mũ để khủng bố. Dù có dùng những thủ thuật như khai vỡ nợ, không tiền, tên tuổi và hành động kẻ chụp mũ chắc chắn sẽ được công bố cho cộng đồng. Họ có thể đủ liêm sỉ để tiếp tục chụp mũ hay không, ta phải truy tố họ ra toà thì sẽ có câu trả lời.     
 
Thế cho nên, kẻ nào chụp mũ người khác trong cộng đồng cần phải bị truy tố trước pháp luật.    
  
LS Đỗ Quý Dân  
Dan Do
Efficio Law Group, PC
586 N. First Street, Suite 227
San Jose, CA 95112
 
Phụ lục 1 – Hướng dẫn về luật phỉ báng (do các thẩm phán sử dụng để hướng dẫn bồi thẩm đoàn)    
California Civil Jury Instructions (CACI) 1704. Defamation per se—Essential Factual Elements (Private Figure—Matter of Private Concern).

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2017

Coi chừng mất Thẻ Xanh vì xuất ngoại quá lâu


pic
Ảnh minh hoạ

Đối với người Việt sang Hoa Kỳ sinh sống, việc lấy được tấm Thẻ Xanh Mỹ là việc không dễ dàng đâu. Tuy nhiên việc xuất ngoại quá lâu, và nhiều lần, có thể làm người Việt không thể giữ được tấm thẻ đó. Sau đây là một số tin tức có thể giúp bạn hiểu rõ hơn, để giữ được tấm Thẻ Xanh của mình.

Mỗi năm trở về Hoa Kỳ một lần có đủ không?

Thẻ Xanh có thể được dùng để tái nhập cảnh Hoa Kỳ, sau khi ở ngoại quốc dưới một năm. Nhưng điều này không có nghĩa là quý vị có thể duy trì quy chế Thường trú bằng cách chỉ xem Hoa Kỳ là nơi “thăm viếng” vài lần ngắn ngủi mỗi năm. Trở về Hoa Kỳ một lần trong một năm, cũng có thể đưa đến việc nhân viên Kiểm Soát Biên Giới và Quan Thuế đặt vấn đề về quy chế Thường trú nhân của quý vị. Có một trường hợp như sau: Một Thường trú nhân ở Việt Nam khoảng 11 tháng trong một năm,  rồi trở về Hoa Kỳ sống một tháng mỗi năm. Sau cùng, cơ quan Kiểm Soát Biên Giới và Quan Thuế quyết định rằng: nơi sống thực sự của người này là ở Việt Nam, và bà không còn được hưởng quy chế Thường trú nhân tại Hoa Kỳ được nữa.

Những đòi hỏi căn bản sau một chuyến đi dưới một năm:

Luật 1 năm có hai đòi hỏi như sau:

(a) Vắng mặt ở Hoa Kỳ phải dưới một năm, và

(b) Cá nhân này trở về Hoa Kỳ sau thời gian vắng mặt ngắn ngủi, và quy chế Thường trú không bị hủy bỏ.

Chỉ trở về Hoa Kỳ một lần mỗi năm không thể giữ giá trị của tấm Thẻ Xanh. Thẻ Xanh không phải là cây đũa thần cho phép Thường trú nhân muốn ra-vào Hoa Kỳ bất cứ lúc nào. Sở di trú có thể quyết định rằng: quy chế Thường trú nhân đã bị từ bỏ hay không, mặc dù người có Thẻ Xanh đã trở về Hoa Kỳ mỗi năm.

Chỉ trở lại Hoa Kỳ mỗi 6 tháng không bảo đảm duy trì quy chế Thường trú nhân.

Có người trở về Hoa Kỳ mỗi 6 tháng, vì họ nghĩ rằng: nếu ở ngoài Hoa Kỳ trên 6 tháng sẽ bị xem là từ bỏ quy chế Thường trú nhân. Nếu quý vị ở ngoài Hoa Kỳ trên 6 tháng, liệu điều này có nghĩa là quý vị đã từ bỏ quy chế Thường trú nhân không? Câu trả lời còn tùy vào việc quý vị có thực sự muốn sinh sống ở Hoa Kỳ, và mong muốn đây là căn nhà cố định của mình hay không?

Vắng mặt trên 6 tháng, có thể khiến cho cơ quan Kiểm Soát Biên Giới và Quan Thuế nghi ngờ ý định của quý vị không muốn sống ở Hoa Kỳ lâu dài. Nhân viên Quan Thuế có thể yêu cầu người này chứng minh đã giữ rất nhiều sự ràng buộc với đất nước Hoa Kỳ (chẳng hạn như khai thuế lợi tức hàng năm, có thân nhân ở Hoa Kỳ, có chủ quyền nhà, có Trương mục Ngân hàng, và có những ràng buộc về công việc làm ăn….).

Từ bỏ quy chế Thường trú dựa trên dữ kiện.

Nhân viên Kiểm Soát Biên Giới và quan Thuế tại phi trường có thể hỏi những câu, và dựa vào những dữ kiện này để quyết định xem quý vị vắng mặt ở Hoa Kỳ chỉ là tạm thời, và quý vị đoan chắc sẽ giữ quy chế Thường trú nhân. Sau một thời gian vắng mặt dài ở ngoại quốc, nhân viên di trú muốn biết liệu quý vị có ý định thực sự, liên tục trở về Hoa Kỳ trong tương lai gần hay không.

Nếu thường xuyên vắng mặt ở Hoa Kỳ quá lâu, và nếu ở Việt Nam có những ràng buộc về gia đình, làm chủ tài sản, và những việc làm ăn, thì đây có thể là vấn đề rắc rối đấy. Không chịu khai thuế lợi tức, hoặc khai thuế như là một người không Thường trú tại Hoa Kỳ cũng sẽ là những yếu tố xấu nữa.

Đối với Thường Trú Nhân, việc du lịch phải ngắn hạn.

Trong mọi trường hợp, việc xuất ngoại phải ngắn hạn, nếu quý vị muốn giữ Thẻ Xanh của mình. Để chứng minh thời gian ở ngoài Hoa Kỳ được xem là ngắn hạn, tạm thời, chuyến du lịch của quý vị phải có ngày trở lại chắc chắn, hoặc chứng minh việc xuất ngoại để giải quyết một vấn đề nào đó trong thời gian ngắn thôi.

Thí dụ: Sở Di trú sẽ thông cảm, nếu quý vị xuất ngoại tạm thời để chăm sóc người thân bị bệnh, hoặc để bán tài sản, hoặc tham dự Lễ cưới. Những công việc được giao phó tạm thời có thể được chấp thuận, nếu quý vị đang làm việc cho một chủ nhân ở Hoa Kỳ.

Những nhu cầu cần thiết về sức khỏe của gia đình.

Dùng thời gian ở ngoại quốc để chăm sóc thân nhân ốm đau, hoặc già yếu, cũng có thể gây trở ngại.Thường trú nhân có thể cần xuất ngoại để giúp đỡ cha mẹ, hoặc thân nhân bị đau yếu. Trong một vài trường hợp, chuyến xuất ngoại này có thể hoàn thành, mà không gây nguy hại cho quy chế Thường trú nhân. Thí dụ: điều có thể chấp nhận được nếu nhu cầu cần giúp đỡ của thân nhân được xem là tạm thời. Nói cách khác, thân nhân được tiên liệu là sẽ được bình phục trong vài tuần, hoặc vài tháng. Hoặc, nếu sự hồi phục không thể tiên liệu, điều kiện hồi phục không thể cứu vãn, và sự sống được xem là sẽ kết thúc nhanh chóng.

Ở ngoại quốc, để mang lại sự giúp đỡ ngắn hạn không giống như việc mang lại sự giúp đỡ thân nhân lớn tuổi hàng ngày. Nhu cầu cần giúp đỡ cho cha mẹ, hoặc những người thân khác già yếu đang sống ở quê nhà là điều có thể thông cảm, nhưng không thể vắng mặt vô thời hạn ở Hoa Kỳ được. Thân nhân trọng tuổi có thể cần sự giúp đỡ khi tuổi về chiều, nhưng tình trạng sức khỏe của họ có thể kéo dài nhiều năm, hoặc nhiều thập niên.

Giấy cho phép Tái nhập cảnh (Re-entry permit) không đương nhiên duy trì quy chế Thường trú nhân, hoặc bảo đảm cho phép nhập cảnh sau thời gian vắng mặt quá dài. Tuy nhiên, giấy cho phép Tái nhập cảnh cho thấy Thường trú nhân có ý muốn trở lại Hoa Kỳ. Giấy phép Tái nhập cảnh cũng giống như giấy nhập cảnh có giá trị sau những lần vắng mặt trên một năm.

Điều gì sẽ xảy ra nếu một Thường trú nhân bị ngăn trở không thể rời Việt Nam trong thời gian dài vì đau yếu?

Trong trường hợp này, Thường trú nhân sẽ nộp đơn xin Chiếu Khán (Visa) Hồi Cư (Returning Resident Visa) tại Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Người này sẽ phải chứng minh rằng: họ rời Hoa Kỳ với ý định trở về, và không từ bỏ ý định này, mà việc trở về Hoa Kỳ chậm trễ vì những lý do nằm ngoài sự kiểm soát, và người này không có trách nhiệm về việc này.

Khi Thường trú nhân trở về Hoa Kỳ, nếu nhân viên Kiểm Soát Biên Giới và Quan Thuế tin rằng: người du khách này không duy trì quy chế Thường trú nhân, người này chỉ có thể cho phép nhập cảnh để ra điều trần trước một phiên Tòa Di trú. Chánh án Di trú sẽ quyết định xem Thường trú nhân này có từ bỏ quy chế của mình không.

Thẻ Xanh và giấy Phép Tái Nhập Cảnh không đương nhiên bảo đảm rằng: một người sẽ được tái nhập cảnh Hoa Kỳ. Quyết định này tùy thuộc vào những dữ kiện của sự việc, bao gồm những việc trong những chuyến xuất ngoại trước, và lý do nào đã kéo dài chuyến xuất ngoại của mình. Những người có Thẻ Xanh đang nghĩ đến những chuyến xuất ngoại lâu dài, và thường xuyên, nên được cố vấn kỹ lưỡng trước chuyến đi. Những chuyến đi dài và thường xuyên cần có kế hoạch kỹ lưỡng, và hiểu rõ những nguy cơ và những dự phòng có thể xảy ra.

Thứ Tư, 15 tháng 2, 2017

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2017

Toà án Tối cao California tuyên án hai ông Liên Thành và Dương Đại Hải đã ác tâm vu cáo ông Trần Đình Minh là gián điệp Cộng sản, tiền phạt bồi thường là Hai trăm nghìn Mỹ kim

PARIS, ngày 23.5.2015 (PTTPGQT) – Ngài Frederick Horn, Thẩm phán Toà án Tối cao California – Quận Cam đã ký án lệnh ngày 9 tháng 10 năm 2014 tuyên án ba bị cáo, là ông Nguyễn Phúc Liên-Thành, Dương Đại Hải Đài Truyền hình Quốc gia Việt Nam 57.10 đã ác tâm vu cáo ông Trần Đình Minh là gián điệp Cộng sản, và bắt hai ông Liên-Thành Nguyễn Phúc và Đại Hải Dương phải trả bồi thường 200,000.00 Mỹ kim (hai trăm nghìn) cho ông Trần Đình Minh. (Trong án lệnh tiếng Anh viết họ tên viết đảo ngược, như Lien-Thanh Nguyen Phuc, Dai Hai Duong không như cách viết Việt Nam).

Trong nhiều năm qua, ông Liên Thành là cựu Thiếu tá Cảnh sát tại Thừa Thiên – Huế như ông thường xác định, tung lên mạng rất nhiều bài đánh phá hồ đồ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cùng nhiều vị giáo phẩm của Giáo hội, bằng những lời vu khống khiếm nhã, thiếu gia giáo khi xưng hô với bậc cao tăng hay người đối thủ.
Một vị thiếu tá Cảnh sát trong chính thể Việt Nam Cộng hoà, theo nguyên tắc, không thể hành xử mất dạy như công an cộng sản, vì phải là người có ăn học, biết luật pháp và lẽ phải. Không thể vu cáo vô bằng.

Sống trong một quốc gia dân chủ, thượng tôn pháp luật, thế mà ông cựu thiếu tá chẳng biết luật lệ là gì. Tha hồ vu cáo người quốc gia, đến khi bị truy tố, nhận trát toà Hoa Kỳ đòi ra đối chất thì lại lẩn tránh, trốn nhủi, không dám ngẩng mặt nhìn pháp luật.
Thử hỏi vào thời loạn ly bốn mươi năm trước, ở một tỉnh lẻ như Huế, mà ông chụp mũ Việt Cộng bừa bãi như ông đang hành xử tại Hoa Kỳ, thì chắc chắn số lượng người ông giết hay bỏ tù hẳn phải cao ngất trời, và hiển nhiên những người này đều là lương dân vô tội. Như sự việc vừa xẩy ra với ông Trần Đình Minh. Thời ở Huế ấy, ông vừa một tay độc quyền nắm “luật pháp quốc gia”, một tay cầm súng cô-bồi, có gì ông chẳng làm cho thoả thú tính trong người ông ?!
Huynh trưởng Trần Đình Minh, là Phó Ban Hướng Dẫn Trung ương Gia Đình Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ, bị ông Liên Thành vu cáo trên mạng Internet hay Đài Truyền hình là Cộng sản 4 lần trong hai năm 2011 và 2012.
Tiếng nói của ông cựu thiếu tá cảnh sát nói ra ắt dễ có người tin trong lĩnh vực Diệt Cộng. Nhất là chính ông cựu thiếu tá ra lệnh bắt ông Trần Đình Minh vì tội “hoạt động Cộng sản” !
Ngày 12-6-2011 trên Diễn Đàn Internet “Nói thẳng nói thật”, ông Liên Thành vu cáo ông Minh bị ông Phan Văn Ngữ, Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia, bắt năm 1972 cùng với 7 người khác vì hoạt động cho Cộng sản. — Đại uý Phan Văn Ngữ hiện ở Hoa Kỳ đã viết thư chất chính rằng ông mới nhận nhiệm sở vào năm 1973, thì làm sao bắt ông Minh năm 1972 ?
Ông Liên Thành bèn chống chế, “hồ hởi” nói thác rằng chính ông Liên Thành ra lệnh cho nhân viên Cảnh sát đặc biệt, tên Nguyễn Xuân Tư, bắt ông Minh. — Trời bất dung nhan, ông Nguyễn Xuân Tư cũng đang ở Mỹ nên viết thư xác nhận ông chẳng hề dính dáng vào vụ bắt bớ này.
Dù hai năm rõ mười như thế, ông Liên Thành vẫn tiếp tục sử dụng ông Dương Đại Hải và Đài Truyền hình Quốc gia Việt Nam 57.10 tiếp tục vu cáo ông Minh qua các ngày 18-5-2012, 13-10-2012, 14.12-2012 với các sự kiện bắt bớ như trên, thay vì cải chính sự sai lầm của mình như người quân tử thường làm.
Mặc dù ông Lê Châu, Trưởng phòng Nội an từ năm 1967 đến 1975, là người điều hành trực tiếp ông Trần Đình Minh tại quận Hương Điền (Huế) hiện đang ở Hoa Kỳ, công bố thư xác nhận ông Minh là người quốc gia và chưa bao giờ bị bắt vì lý do vu khống của ông Liên Thành suốt thời gian ông lãnh đạo nhiệm sở nơi ông Minh làm việc.
Ngày 14-12-2012, trên Đài truyền hình của ông Dương Đại Hải, ông Liên Thành lại tố cáo ông Trần Đình Minh có “hai tiệm bán rượu”, dùng tiền thu nhập tiếp tế cho Lê Công Cầu và Lê Công Cơ, cán bộ Cộng sản.
Ông cựu Cảnh sát Liên Thành nay đã cao tuổi, khi nhớ, khi lẫn chuyện năm sáu mươi năm trước ở Huế là chuyện tự nhiên của kẻ già cả. Nhưng chuyện của năm 2012, nghĩa là mới đây thôi, ở trên cùng đất Mỹ với ông Trần Đình Minh, thế mà ông cựu Cảnh sát Liên Thành cũng nói trật lất để vu khống “hai tiệm rượu” mà ông Minh không hề có hay làm sở hữu chủ ??! Lý luận đuổi gà của ông Liên Thành là phải có tiệm rượu thì mới có tiền, và có tiền là để phục vụ Cộng sản. Năm 72 ông Minh bị bắt vì “theo Cộng sản”, thì năm 2012 ở Mỹ ông Minh vẫn tiếp tục “làm ăn cho Cộng sản” — Logic của ông cựu cảnh sát.
Hơn thế nữa, là cựu thiếu tá cảnh sát, một tay nắm quyền sinh sát dân Huế thập niên 60, 70, thế mà ông cảnh sát Liên Thành vẫn nhắm mắt để cho Lê Công Cơ, tức Lê Phương Thảo, tự do nằm vùng cho Cộng sản, tự do hoạt động nội thành Huế, tự do tuyên truyền cho Cộng sản tại Đại học Huế, với chức vụ “Chủ tịch Liên hiệp sinh viên – học sinh Giải phóng Huế” từ năm 1963 đến 1966, và “Thành uỷ viên Thành uỷ Huế từ 1972 trở đi !
Ông cựu cảnh sát Liên Thành sử dụng y trò của hai Dư luận viên tự gọi là ”Phật tử” khác ở Mỹ, tố cáo ông Lê Công Cầu là “Cộng sản” chỉ vì cùng họ với Lê Công Cơ. Thứ tam đoạn luận nhị nguyên tự nó bày tỏ nguồn gốc của những kẻ chụp mũ đồng loại là ai. Chụp mũ vì bốc đồng, vì muốn hại người, chẳng có lý luận, chẳng y cứ vào cơ sở nào. Lê Công Cơ là đảng viên hoạt động nội thành Huế cho Cộng sản, nhưng sinh ở Điện Bàn, Quảng Nam, được Đảng điều vào nằm vùng hoạt động ở Saigon, rồi sau chuyển ra Huế và Đà Nẵng.
Còn Lê Công Cầu, là Huynh trưởng Gia Đình Phật tử Huế, hiện giữ chức Tổng Thư ký Viện Hoá Đạo GHPGVNTN, sinh ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên – Huế. Người Quảng Nam, người Huế, ở hai gia đình khác nhau, lập trường cũng đối nghịch, thế mà chỉ vì hai chữ Lê Công trở thành Cộng sản !
Thử hỏi có ai cắt cớ thấy tên giống nhau mà nói rằng cựu cảnh sát Liên Thành là anh chàng bán nước mắm ở Phan Thiết cho hãng Liên Thành, thì người có chút hiểu biết, hay học hành, có tin được không ?
May mắn cho người Việt chúng ta được sống tại các nước văn minh Âu Mỹ, pháp luật được thượng tôn. Nên pháp luật Hoa Kỳ đã phân rõ chính — tà qua phiên xử ngày 9-10-2014, vạch trần sự ác tâm vu hãm người hiền lương của ông cựu thiếu tá cảnh sát Liên Thành.
Chúng tôi xin đăng tải Án lệnh và bản Việt dịch sau đây để người Việt Tự do không còn nơm nớp lo sợ những thủ đoạn chụp mũ chẳng mấy thanh cao :

                                       TOÀ ÁN TỐI CAO TIỂU BANG CALIFORNIA

ĐỊA HẠT QUẬN CAM


Minh Tran, cá nhân, Nguyên đơn
kiện
Lien Thanh Nguyen Phuc, cá nhân, Hai Dai Duong, cá nhân, Đài Truyền hình Quốc gia 57.10, cả ba là Bị cáo
Trường hợp số : 30-2013-00653938-CU-DF-CJC
Đơn kiện đệ nạp : 4 tháng 6 năm 2013
Xử ngày : 6 tháng 10 năm 2014 lúc 9 giờ sa'ng
Khu hành chính : C-31
Ngài Frederick Horn, Thẩm phán Toà án Tối cao

VỤ XỬ CHO HAI BÊN NGUYÊN VÀ BỊ
CÙNG LUẬT SƯ TƯƠNG ỨNG
Vụ xử đã được thông báo đúng theo quy tắc để Toà phán quyết (không ai phản bác) hôm 6 tháng 10 năm 2014, trước sự hiện diện của Ngài Frederick Horn, ở khu hành chính C-31 của toà án nói trên. Luật sư Gary S. Harrison người được nguyên đơn, Minh Tran, uỷ quyền và làm chứng. Các bị cáo LIEN-THANH PHUC NGUYEN, một cá nhân, HAI DAI DUONG, một cá nhân, ĐÀI TRUYỀN HÌNH QUOC GIA VIET NAM 57.10, không hiện diện, họ cũng đã không hiện diện hôm 29 tháng 4 năm 2014.
Toà đã xem xét qua các lời khai của nhân chứng, sự việc trong hồ sơ, bằng chứng trình bày trước phiên toà và các lời khai báo, sau khi nghe các luận cứ luật sư, và đã được thông báo mọi chi tiết, TOÀ LẬP ĐỊNH NHƯ SAU :
  1. Bị cáo Lien-Thanh Phuc Nguyen đã xuất hiện như người trình bày và/hay được phỏng vấn trên đài truyền hình với người dẫn chương trình là bị cáo Hai Dai Duong trên bị cáo Đài Truyền hình Quốc gia Việt Nam 57.10 ;
  2. Bị cáo Lien-Thanh Phuc Nguyen tiếp tục nói trên chương trình Đài truyền hình do bị cáo dẫn chương trình Hai Dai Duong trên Đài Truyền hình Quốc gia Việt Nam 57.10, rằng nguyên đơn bị bắt vì tội gián điệp cộng sản và/hay Bắc Việt chống chế độ cũ Việt Nam Cộng hoà Nam Việt Nam ;
  3. Các bị cáo đã nói và/hay cho phát trên đài truyền hình những lời phát biểu gây thương tổn cho Nguyên đơn ;
  4. Các bị cáo đã nói và/hay cho phát những lời thương tổn cho nhiều người khác với Nguyên đơn ;
  5. Những người này, khác với Nguyên đơn, nghe các phát biểu gây thương tổn này sẽ hiểu là những phát biểu này nhắm vào Nguyên đơn ;
  6. Những người này, khác với Nguyên đơn, nghe các phát biểu gây thương tổn này hẳn phải hiểu các phát biểu ấy có nghĩa là Nguyên đơn phạm tội, phục vụ Cộng sản, chống lại quê hương thương mến cũ, Cộng hoà Nam Việt Nam, trong thời gian chiến tranh Việt Nam ;
  7. Những phát biểu gây thương tổn là giả dối ;
  8. Các Bị cáo hành động với ác tâm và đã không chịu tìm hiểu một cách phải chăng để xác định sự thật hay giả mạo của những lời phát biểu gây thương tổn ; và
  9. Các Bị cáo không chịu rút lại những lời phát biểu gây thương tổn sau khi được Nguyên đơn yêu cầu đính chính.
HƠN NỮA TOÀ LẬP ĐỊNH :
  1. Rằng Nguyên đơn là người có thanh danh xuất sắc trong cộng đồng người Việt địa phương. Rằng Nguyên đơn có chức vụ cao, là Giám đốc Giáo dục, trong một tổ chức Phật giáo nổi danh, cho tới khi các quan hệ bị cắt đứt do hậu quả hành xử gây thương tổn của các Bị cáo.
VÌ VẬY, LỆNH án quyết cho Nguyên đơn thắng kiện.
HƠN NỮA LỆNH CHO Nguyên đơn được hưởng sự bồi thường sau đây :
Nguyên đơn được hưởng 100,000.00 $US về bồi thường tổng quát, và 100,000.00 $US cho bồi thường trừng phạt, tổng cộng là 200,000.00$US. Các Bị cáo sẽ phải chung cùng và riêng lẻ từng người phải chịu trả tiền bồi thường cho Nguyên đơn.
Án lệnh ngày 9 tháng 10 năm 2014
Ngài Frederick Horn
Thẩm phán Toà án Tối cao
2015-0523a2015-0523b2015-0523c

SẮC LUẬT CẤM DI DÂN VÀ NGƯỜI VIỆT

BBT: Sau khi xem qua video của Báo Calitoday do Nguyễn Xuân Nam phỏng vấn "khúc ruột ngàn dặm" Nam Lộc, trong đó cả hai người phụ họa nhau để chỉ trích sắc luật của ông Trump tạm thời ngăn cấm sự nhập cư vào Mỹ của khách du lịch từ 7 nước chuyên nghề khủng bố, chúng tôi thấy cần thiết phải đăng bài dưới đây để mở mắt cho hai người này để họ không còn mù mà không nhìn thấy hiểm họa của nạn khủng bố do những kẻ đang mang thẻ xanh của Hoa Kỳ tự do ra vào nước Mỹ.
Cũng có ngày, nếu Nam Lộc tiêm nhiễm cái tự do rỡm của bọn Liberals đi về VN, mang tiền để cung cấp cho bộ máy khủng bố VC chống lại công dân Mỹ… thì chắc chắn ông sẽ theo gót những người nêu danh dưới đây để vào gở lịch trong nhà tù liên bang. Danh sách dưới đây chỉ nêu danh có 20 người dân tỵ nạn phạm tội khủng bố đã bị bỏ tù vì có chứng cớ, nhưng chắc chắn còn cả trăm, cả ngàn đứa khác đang ẩn núp để giết dân Mỹ, và trước đây đã có 1 thằng Mỹ gốc Việt Nam rửng mỡ tên Minh Quang Phạm đã hổ trợ cho bọn Al Qaeda toan cho nổ mìn tại phi trường Heathrow tại Anh Quốc. Hắn đang gở lịch trong nhà tù Mỹ đấy ông Nam Lộc ạ !!


Minh Quang Pham. Ảnh: New York Times
Lời giải đáp cho những tên di dân Việt Nam đang chỉ trích TT Trump về sắc luật bài trừ việc nhập cư bừa bải người tỵ nạn.
20 người dân tỵ nạn "đã được sàng lọc" lại trở thành khủng bố thánh chiến sau khi được nhận vào nước Mỹ
Author: Pamela GellerSource: Pamela Geller reports Posted on: 2017-02-08
Tông thống Trump có đúng hay không khi bấm "nút ngừng" để khước từ nhận các "dân tỵ nạn" từ những lò huấn luyện khủng bố thánh chiến ? Hẳn quý vị cho là đúng. Các tiến trình sàng lọc và chính sách tỵ nạn của Obama chỉ là một thiên hùng ca đầy thất bại.
Để biết rõ thực hư thế nào, xin quý vị đọc tin tức sau đây do phóng viên Chris Menahan,của thông tấn InformationLiberation tường trình ngày, January 29, 2017
20 DÂN TỴ NẠN "ĐÃ ĐƯỢC SÀNG LỌC" LẠI GIA NHẬP KHỦNG BỐ SAU KHI ĐƯỢC NHẬN VÀO ĐẤT MỸ
Trong khi giới truyền thông gian trá cứ dai dẳng nói dối cho rằng người tỵ nạn không tạo vấn nạn đe dọa khủng bố nào thì … các dữ kiện cụ thể lại chứng tỏ trái ngược hẳn với luận điệu của họ.
Thượng Nghị sĩ Jeff Sessions, người sắp sửa trở thành Quan Chưởng Lý, đã đúc kết một danh sách gồm những kẻ được nhận cho tỵ nạn nhưng lại trở về gia nhập khủng bố thánh chiến trong năm 2016 khi ông Obama cho tăng số người "được gọi là tỵ nạn" nhập vào nước Mỹ lên một cách đột ngột.
1 – Ngày May 25, 2016, tại Tòa Án của Northern District ở tiểu bang Texas, tên Bilal Abood bị kết án bốn năm tù giam vì đã khai gian với cơ quan FBI. Abood, một thông dịch viên cho quân đội Mỹ, được nhập cư vào nước Mỹ với giấy "hộ chiếu đặc biệt cho dân nhập cư" (Special Immigrant Visa -- SIV) dành cho những người thông ngôn của năm 2009, và về sau đã trở thành công dân Hoa Kỳ.. Abood đã gia nhập quân đội Mỹ và được thụ huấn quân sự cơ bản tại Fort Jackson vào năm 2010, nhưng đã rời bỏ quân ngũ mà không có lý do. Theo tài liệu của tòa án, khi bị ngăn cản không được đáp một chuyến bay quốc tế, Abood đã khai với nhân viên FBI rằng y có ý định đi về Iraq để thăm gia đình. Sau đó, Abood rời nước Mỹ qua ngã Mexico, rồi du hành qua nhiều xứ để đến Syria gia nhập vào ISIS. Việc khám xét máy điện toán của y đã phát giác rằng y đã tuyên thệ với thủ lãnh của tổ chức ISIS dù rằng y đã phủ nhận cáo buộc đó.
(Trên đây là dữ kiện nhắc nhở ông Nam Lộc nên thận trọng lời nói khi đả kích ông Trump nói rằng những ngưòi Iraq làm thông dịch viên cho quân đội Mỹ là đáng tin cậy, và oan uổng cho họ khi cấm họ (tạm thời) du nhập vào Mỹ sau khi họ du lịch về Iraq vì lý do riêng tư mà không có nhiệm vụ của chính quyền Mỹ giao phó. -Xem video sau đây ở phút thứ 7: video phỏng vấn Nam Lộc do phóng viên Nguyễn Xuân Nam của báo Cali Today thực hiện. - BCT)
2 – Vào ngày 7, 2016, tại tòa án của Eastern District ở California, Aws Mohammed Younis Al-Jayab bị kết tội đã cung cấp những chứng từ gian dối, giả tạo cũng như giả tưởng với chính quyền Mỹ. Y đã bị truy tố vào ngày 17 March, 2016 về nhiều tội khác nhau, toan tính cung cấp vật liệu hổ trợ cho các hoạt động bạo hành tại hải ngoại. Al-Jayab, một người gốc Palestine sinh tại Iraq, đã được nhập cư vào nước Mỹ như dân tỵ nạn vào năm 2012. Theo đơn tố cáo hình sự, kể từ tháng 10 năm 2012 — ngay tháng đầu tiên y đến Mỹ— Al-Jayab khởi sự thông báo cho nhiều cá nhân về ý định muốn đi đến Syria để chiến đấu cho các tổ chức khủng bố. Tháng Tư 2013, Al-Jayab đã viết nhiều báo cáo cho một cá nhân khác (sau này được biết là Omar Faraj Saeed Al Hardan) về kinh nghiệm của y về vũ khí và đã giết hại nhiều người tại Syria. Tháng 11 năm 2013, một năm sau khi được nhập cư ở Mỹ làm người tỵ nạn, y đã du hành qua Syria và đăng tin lên mạng truyền thông xã hội rằng y đang chiến đấu cho nhiều tổ chức khủng bố, y viết "nước Mỹ sẽ không ngăn được tôi thi hành nhiệm vụ hồi giáo của tôi. Chỉ có cái chết mới chia phần với chúng ta thôi. "
3– Ngày 7January, 2016, tại tòa án của Southern District ở Texas, Omar Faraj Saeed Al Hardan bị kết án trong một phiên toà về tội yểm trợ vật liệu cho một tổ chức khủng bố nước ngoài, về việc cung khai gian dối và toan lấy được quyền công dân và nhập tịch một cách phi pháp.
Công tố nói rằng y toan tính cung cấp dịch vụ huấn luyện, cố vấn, trợ giúp kinh nghiệm và cung cấp nhân sự, đặc biệt là chính bản thân của y cho một tổ chức khủng bố.. Al Hardan là dân Iraq gốc Palestine, được nhập cư vào Mỹ như kẻ tỵ nạn vào năm 2009, và có được thẻ xanh vào năm 2011. Khi nộp đơn xin quyền công dân Hoa Kỳ, y đã trả lời, chứng nhận và tuyên thệ láo một cách đầy ý thức rằng y không hội nhập với bất cứ một tổ chức khủng bố nào trong khi sự thật y đã kết hợp với những thành viên và cảm tình viên của ISIS trong suốt năm 2014. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 10 năm 2015, Al Hardan đã khai gian rằng y chưa hề được huấn luyện với bất cứ loại vũ khí nào, trong khi sự thật thì y đã được huấn luyện về súng máy. Theo những gì ghi nhận qua truyền thông, Al Hardan đã nói với vợ mình rằng “Tôi sẽ đi qua Syria. Tôi muốn mang bom tự sát . . . Tôi chống nước Mỹ".
4– Ngày August 12, 2015, tại tòa án của District of Idaho, Fazliddin Kurbanov bị kết tội là thủ phạm âm mưu và toan tính cung cấp vật liệu hổ trợ cho một tổ chức khủng bố được chỉ định, và sở hữu một bộ máy hủy diệt không đăng ký. Kurbanov là người sinh trưởng ở Uzbekistan, đã đến Mỹ làm người tỵ nạn vào năm 2009. Quan phụ tá chưởng lý John Carlin nói rằng "Kurbanov đã âm mưu hổ trợ vật liệu cho Phong trào Hồi Giáo Uzbekistan và cung cấp vật liệu chế bom với mục đích thi thành một cuộc tấn công khủng bố trên đất Mỹ.” Theo tường trình của báo chí, Kurbanov sinh ra là một tín hữu Hồi Giáo, nhưng gia đình của anh ta rêu rao rằng họ đã bị bách hại sau khi cải đạo qua Chính thống Giáo . Sau khi đến Mỹ cùng gia đình như kẻ tỵ nạn, nghe nói Kurbanov đã trở lại đạo Hồi và theo phái cực đoan.
5– On April 20, 2015, tại tòa án của District of Minnesota, Guled Ali Omar bị kết tội là đã âm mưu và toan tính cung cấp vật liệu hổ trợ cho ISIS. Omar được sinh ra tại một trại tỵ nạn Kenya, và các nguồn tin cho biết y đã đến Mỹ như là một người tỵ nạn khi còn là một đứa trẻ, đã nhận được thẻ xanh, và về sau đã nộp đơn và đã có được quyền công dân. Omar là em trai của một tội phạm đang đào thoát là,Ahmed Ali Omar, người đã rời nước Mỹ vào năm2007 để chiến đấu cho tổ chức Al-Shabaab. Một người anh khác của y là,Mohamed Ali Omar, đã bị kết án vào tháng March năm 2015 vì đã đe dọa nhân viên của liên bang khi họ đến nhà của gia đình y để hỏi cung Guled Omar. Trong một cuộc họp báo, quan chưởng lý Andy Luger của District of Minnesota, đã nói rằng Omar “không bao giờ ngừng lập mưu,” và trước đó đã từng toan tính rời nước Mỹ.
6– Ngày April 20, 2015, tại tòa án quận District of Minnesota, Abdurahman Yasin Daud bị kết án (cùng với sáu người khác) vì tội âm mưu và toan tính cung cấp vật liệu hổ trợ cho ISIS. Daud, là một kẻ tỵ nạn từ Somalia đến Mỹ khi còn nhỏ, và về sau đã có được thẻ xanh. Daud và một tên khác đã lái xe từ Minnesota đến San Diego để toan tính xin chiếu khán, vượt biên giới qua Mexico, rồi bay về Syria để gia nhập ISIS.
7– Ngày February 18, 2015, Al-Hazmah Mohammed Jawad bị chận bắt khi y toan đáp máy bay đi Jordan để gia nhập và chiến đấu cho ISIS tại Iraq. Jawad được cho nhập cư vào Mỹ năm 2013 như là dân tỵ nạn Iraq và sau đó được cấp thẻ xanh. Jawad bị kết tội vì đã khai gian với chính quyền Mỹ. Y cũng khai rằng y “đã từng đi đến trường luyện bắn súng và luôn chạy thể thao để tăng cường sức khỏe hầu chẩn bị cho những chuyến đi sắp tới,” và một bộ quân phục đang chờ đợi y ở Iraq.
8– Ngày February 5, 2015, tại tòa án quận Western District of Texas, Abdinassir Mohamud Ibrahim bị kết án 15 năm tù giam tại nhà tù liên bang vì tội âm mưu cung cấp vật liệu hổ trợ cho Al-Shabaab, một tổ chức khủng bố có tên tuổi ở nước ngoài, và về tội khai gian trong hồ sơ xin nhập cư. Ibrahim là người sinh trưởng tại Somalia, đến Mỹ dưới danh tỵ nạn vào năm 2007 ở tuổi 22 và sau đó được ấp thẻ xanh. Ibrahim khai gian có ý thức trong hồ sơ xin nhập tịch và trong đơn xin tỵ nạn trước đó. Hy khai gian rằng y là thành viên của nhóm dân thiểu số Awer tại Somalia và đang bị bách hại bởi nhóm đa số Hawiye. Thực ra Ibrahim là thành viên của nhóm Hawiye và không hề bị bách hại. Đúng theo tài liệu tại tòa, “gia tộc của Ibrahim nổi tiếng [và] có giai cấp trong nhóm, Ibrahim dính líu với những tên khủng bố có tiếng tại Somalia” Ibrahim cũng thừa nhận y đã nói dối trong đơn xin nhập tịch và đơn xin tỵ nạn khi khai rằng y không cung cấp vật liệu hổ trợ cho một toán khủng bố nào trong khi thực sự y đã cung cấp tiền cho một thành viên của tổ chức Al-Shabaab.
9– Ngày February 5, 2015, tại tòa án quận Eastern District of Missouri, Abdullah Ramo Pazara bị buộc tội chung trong một nhóm 6 người. Pazara, sinh trưởng tại Bosnia, các nguồn tin cho biết y đến Mỹ xin tỵ nạn, và sau đó đã nhận được thẻ xanh rồi được nhập tịch vào năm 2013. Pazara không bị đưa ra kết án trong vụ này bởi người ta nghe rằng y đã chết. Theo tài liệu của tòa án, những kẻ khác đã bị kết tội cung cấp tài vật cho Pazara, lúc đó đã rời Mỹ để đi Syria chiến đấu cho ISIS ngay sau khi được nhập tịch chỉ có 11 ngày. Giữa những chuyện khác thì, Pazara được biết là đã tiết lộ cho một người khác biết về một cuộc hành quân trong đó phe khủng bố đã chiếm được một vùng đất rộng, đã giết chết 11 người, bắt sống một kẻ khác, và kể rằng họ có ý định giết chết người tù binh này vào ngày hôm sau.” Theo tin tức báo chí, vào thời điểm Pazara được cho là đã bị giết tại Syria, thì lúc đó y làm phụ tá cho một trong những người lãnh đạo căo cấp của ISIS.
10– Ngày February 5, 2015, tại tòa án quận Eastern District of Missouri, Ramiz Zijad Hodzic bị kết án vì âm mưu cung cấp vật liệu hổ trợ và tài nguyên cho bọn khủng bố, và cung cấp vật liệu hổ trợ cho bọn khủng bố, và âm mưu giết và làm bại liệt người khác tại một nước ngoại quốc. Hodzic sinh trưởng tại Bosnia, và là một người Bosnia được tiếng anh hùng chiến tranh đã đến Mỹ xin tỵ nạn. Theo lời buộc tội trong nhiều cáo buộc khác, Hodzic đã nhận tiền rồi dùng để "mua vật dụng và đồ tiếp liệu gồm: quân phục của lính Mỹ, giày trận, các hàng hóa quân sự thặng dư, đồ trang bị và áo quần tác chiến, đồ phụ tùng súng ống, các thiết bị quang học và máy dò tìm đo tầm bắn, ống ngắm cho súng trường, đồ trang bị và tiếp liệu…với ý đồ chuyển những vật liệu này cho Abdullah Ramo Pazara và ISIS xử dụng.
11– Ngày February 5, 2015, tại tòa án quận Eastern District of Missouri, Sedina Unkic Hodzic bị kết tội âm mưu cung cấp vật liệu hổ trợ và tài nguyên cho bọn khủng bố. Sedina là vợ của Ramiz Zijad Hodzic, và là người sinh trưởng tại Bosnia đến Mỹ xin tỵ nạn. Theo lời buộc tội, Sedina cùng với chồng đã thu gom tiền bạc từ những thành phần thứ ba và chuyễn ra cho bọnkhủng bố ở nước ngoài. Cũng theo cáo trạng, Sedina đã gởi 6 thùng quân phục Mỹ, giày trận, ác quần và trang bị tác chiến, các sản phẩm quân sự thặng dư, các phụ tùng súng ống, ống ngắm cho súng trường, thiết bị quang học, tiếp liệu cứu thương và các trang bị khác cho quân khủng bố ở ngoại quốc
12– Ngày February 5, 2015, tại tòa án quận Eastern District of Missouri, Armin Harcevic bị kết tội âm mưu cung cấp và cung cấp vật liệu hổ trợ và tài nguyên cho bọn khủng bố. Harcevic sinh trưởng tại Bosnia đến Mỹ dưới diện tỵ nạn, và sau đó nhận được thẻ xanh. Theo cáo trạng, Harcevic thu gom tiền bạc từ thành phần thứ ba chuyển đi cùng với tiền của riêng mình cho bọn khủng bố tại nước ngoài.
13 – Ngày February 5, 2015, tại tòa án quận Eastern District of Missouri, Nihad Rosic bị kết tội âm mưu cung cấp vật liệu hổ trợ và tài nguyên cho bọn khủng bố, âm mưu giết và làm thương tật cho nhiều người ở một nước ngoài. Rosic sinh trưởng tại Bosnia đã đến Mỹ dưới diện tỵ nạn, đã được thẻ xanh và về sau đã nộp đon xin và đã được nhập tịch Mỹ. Theo cáo trạng, Rosic gởi tiền bạc cho bọn khủng bố nước ngoài, và đã toantính du ịch về Syria để theo bọn khủng bố tại Syria và Iraq. Theo tường trình của báo chí, Rosic là một tài xế xe tải và một tay giỏi võ, trước đây y đã bị kết tội vì làm cho tính mạng của một đứa trẻ lâm nguy khi đấm vào mặt người đàn bà đang bồng bế đứa bé này, và trong một trường hợp khác, đã bị kết tội tấn công sau khi đã dùng nịt quất vào bạn gái.
14– Ngày February 5, 2015, tại tòa án quận Eastern District of Missouri, Mediha Medy Salkicevic bị kết tội âm mưu cung cấp và cung cấp vật liệu hổ trợ và tài nguyên cho bọn khủng bố. Salkicevic sinh trưởng tại Bosnia đã đến Mỹ dưới dạng tỵ nạn, đã có thẻ xanh và về sau đã nộp đơn xin và được nhập tịch Mỹ.. Theo tường trìnhcủa báo chí thì Salkicevic trước đây là nhân viên của một công ty chuyển dịch hàng hóa chuyên trách các mặt hàng đến và đi tại phi trường quốc tế Chicago’s O’Hare. Theo cáo trạng, Salkicevic thu gomtiền bạc từ thành phần thứ ba và chuyển cùng vời tiền riêng của mình cho bọn khủng bố tại ngoại quốc.
15– Ngày February 5, 2015, tại tòa án quận Eastern District of Missouri, Jasminka Ramic bị kết tội âm mưu cung cấp và cung cấp vật liệu hổ trợ và tài nguyên cho bọn khủng bố. Ramic là một người sinh trưởng tại Bosnia đã đến Mỹ theo diện tỵ nạn, đã có thẻ xanh và về sau đã nộp đơn xin và đã được nhập tịch. Theo cáo trạng, Ramic thu gom tiến bạc từ các thanh phầnthứ ba và chuyển nó cùng với tiền riêng của mình cho bọn khủng bố tại ngoại quốc.
16– Ngày January 29, 2015, tại tòa án quận Eastern District of Virginia, một trác của tòa án liên bang đã được mở ra để bắt giữ Liban Haji Mohamed, người được cho là cung cấp vật liệu hổ trợ cho Harakat Shabaab Al-Mujahidin, còn được biết dưới tên Al-Shabaab và Al-Qaeda. Mohamed là người sinh trưởng tại Somalia mà théo các nguồntin cho biết, đã đến Mỹ dưới diện tỵ nạn, đã có thẻ xanh, và về sau đã nộp đơn xin và được nhập tịch Mỹ. Người ta cho rằng y đã rời nước Mỹ vào ngày July 5, 2012, với ý định gia nhập tổ chức Al-Shabaab tại East Africa. Mohamed trước đó sinh sống tại Washington, D.C. và làm tài xế taxi, và đã lén băng qua biên giới để đến Mexico sau khi bị liệt vào danh sách cấm bay. Carl Ghattas, nhân viên đặc vụ phụ trách văn phòng FBI dã chiến tại Washington, D.C. đã đề cao tầm quăn trọng là phải tìm cho ra chỗ ở của Mohamed, “bởi vì hăntắa biết rành về địa lý các cơ sở của vùng Washington, D.C. như các khu mua sắm, tàu điện ngầm, phi trường, và các cao ốc của chính quyề, điều này khiến hắn trở thành một lợi thế cho những tên cọng sự của hắn khi chúng mưu toan tấn công nước Mỹ."
17– Ngày January 31, 2014, tại tòa án quận Southern District of California, Ahmed Nasir Taalil Mohamud đã bị kết án 6 năm tù giam vì tội âm mưu cung cấp vật liệu hổ trợ cho một tổ chức khủng bố nước ngoài. Mohamud được tiếp nhận vào Mỹ như là một dân tỵ nạntừ Somalia. Hắn sống bàng nghề lái taxi tại Anaheim, California ở đó hắn kêu gọi đóng tiến cho một tổ chức khủng bố Al-Shabaab. Theo hồ sơ của Bộ Tư Pháp, “Nước Mỹ đã đưa ra bằng chứng cho thấy Nasir đã âm mưu cung cấp tiền choal Shabaab, một nhóm chiến binh hung tàn và bạo hành chuyên ôm bom tự sát, nhám vào thường đân để ám sát, và dùng những cơ phận tự chế để làm bom.”
18– Ngày November 18, 2013, tại tòa án quận Southern District of California, Issa Doreh bị kết án 10 năm từ vì tội "âm mưu cung cấp vật liệu hổ trợ cho bọn khủng bố, âm mưu rửa tiền và cung cấp vật liệu hổ trợ cho một tổ chức khủng bố nước ngoài.” Doreh được nhận vào nước Mỹ như một kẻ tỵ nạn từ Somalia và sau đó được cấp thẻ xanh và trở thành công đân nước Mỹ. Doreh là, việc tại một dịch vụ chuyển tiền và đó là trung tâm của sự âm mưu, dính líu với Ahmed Nasir Taalil Mohamud.
19– Ngày January 29, 2013, tại tòa án quận Western District of Kentucky, Waad Ramadan Alwan bị kết án 40 năm tại nhà tù liên bang, và một án tiếp theo là bị quản chế suốt đời vì nhiều tội kiên quan đến khủngbố. Alwan sinh trưởng tại Iraq đến mỹ vào 2009 theo diện tỵ nạn. Theo hồ sơ của bộ Tư Pháp công bố cho báo chí thì “Alwan, có dấu vân tay phù hợp tìm thấy trên một quả bom chưa nổ tự chế tại Iraq, đã bị phán là có tội trước đây trong một vụ án vào ngày December 16, 2011, cho tất cả 23 cáo trạng tại tòa án liên bang. Hắn đã thừa nhận thủ phạm trong âm mưu giết nhiều người Mỹ tại nước ngoài,; âm mưu xử dụng vũ khí giết hàng loạt (bom nổ) chống lại người Mỹ tại nước ngoài; phân phối thông tin về cách chế tạo và xử dụng bom tự chế; toan tính cung cấp vật liệu cho bọn khủng bố và cho AQI; và âm mưu chuyển giao. sở hữu, và xuất khẩu hỏa tiển Stinger.” (cần nhấn mạnh thêm là) trong cuộc điều tra, , while “trong khi làm việc chung mà không biết với mật báo viên của FBI, Alwan đã vẽ sơ đồ về các kiểu bom cài ở lề đường và khoe về những vụ tấn công vào quân đội Mỹ tại Irad.” Trong một cuộc thảo luận với mất báo viên của FBI, Alwan đã nói mình rành với súng bắn sẻ, và các "buổi ăn trưa và tối của hắn sẽ có món thịt của một lính Mỹ.”
20– Ngày January 29, 2013, tại tòa án quận Western District of Kentucky, Mohanad Shareef Hammadi bị kêt án tù chung thân vì một số tội liên quan đến khủng bố. Hammadi là người sinh trưởng tại Iraq, được nhận vào Mỹ năm 2009 qua diện tỵ nạn. Theo hồ sơ công bố cho báo chí của bộ Tư Pháp,“Hammadi bị phán có tội ngày August 21, 2012, với cáo trạng 12 tội danh. Cáo trạng của hắn gồm : mưu toan cung cấp vật liệu hổ trợ cho bọn khủng bố và cho AQI; âm mưu chuyển giao, tồn trử và xuất khẩu hỏa tiển Stinger; và cung khai gian dối trong đơn xin nhập cư.”
Sự bài trừ ngườ tỵ nạn của tổng thống Trump là hợp với lý lẽ chung.
Không có một lý do nào cho bất cứ kẻ nào trong số người này được phép vào đất nước của chúng ta.
Nếu tổng thống Trump phải bị chỉ trích về bất cứ điều gì thì hẳn điều đó phải là (tại sao lại) "không làm cho sắc luật bài trừ của ông lan rộng hơn" thôi ..

-----------
Ý kiến độc giả:

Quý vị có tự hỏi vì sao các tên tội phạm trên, dù đã được ăn no ngủ kỷ ở nước xin định cư mà vẫn thích đi theo khủng bố Hồi Giáo để đánh lại nước Mỹ không ? Chỉ có một nguyên do, đó là lời thú nhận của Aws Mohammed Younis Al-Jayab có thể giải thích được : ""nước Mỹ sẽ không ngăn được tôi thi hành nhiệm vụ hồi giáo của tôi. Chỉ có cái chết mới chia phần với chúng ta thôi. ". Lý do duy nhất là đã mù quáng tin theo nhiệm vụ của Hồi Giáo là phải giết kẻ khác đạo với mình.

JB Trường Sơn<br/>
Attachments area
Preview YouTube video Nam Lộc: Sắc luật cấm di dân của TT Trump ảnh hưởng như thế nào với người Việt?