Thứ Hai, 30 tháng 7, 2018

Tin 05-2017 - Con trai cố nhà báo Đạm Phong kiện Ủy Ban Bầu Cử Mỹ (Federal Election Comission)

Con trai cố nhà báo Đạm Phong kiện Ủy Ban Bầu Cử Mỹ

Hà Giang/Người Việt
Trang đầu hồ sơ vụ kiện do ông Nguyễn Thanh Tú phổ biến qua email. (Hình: Người Việt).
Sau khi bài “Yếu tố pháp lý vụ đảng Việt Tân kiện ông Nguyễn Thanh Tú tiếm danh” được đăng trên nhật báo Người Việt hôm 3 Tháng Năm, một số độc giả đã gửi thư vào tòa soạn đặt câu hỏi.
Có người muốn được biết số hồ sơ của vụ kiện này để tự nghiên cứu tài liệu. Người khác muốn biết chi tiết về vụ ông Nguyễn Thanh Tú, con trai cố nhà báo Đạm Phong bị sát hại ở Houston năm 1982, “đang kiện Human Rights for Vietnam Political Action Committee (HRV PAC), đài truyền hình SBTN, đảng Việt Tân, và cựu Dân Biểu Loretta Sanchez.” Người khác đặt câu hỏi “nhật báo Người Việt chừng nào mới viết về vụ ông Nguyễn Thanh Tú kiện đảng Việt Tân.” Bài viết này nhằm trả lời thắc mắc chung của những độc giả trên.
Trước hết, hồ sơ vụ đảng Việt Tân kiện ông Nguyễn Thanh Tú tiếm danh được đánh số: “Case 4:17-cv-00291-HSG”.
Về câu hỏi “chừng nào mới có bài viết về vụ ông Tú kiện đảng Việt Tân?” thì câu trả lời là có lẽ đây là một sự ngộ nhận, vì cho đến giờ, chưa thấy có chứng cớ gì về việc ông Tú nộp đơn kiện đảng Việt Tân cả.

Kiện Ủy Ban Bầu Cử Liên Bang (FEC) chứ không kiện đảng Việt Tân
Vài ngày sau khi đảng Việt Tân ra thông cáo báo chí công bố vụ kiện ông Tú tiếm danh, hôm 1 tháng Năm, ông phổ biến một email có đính kèm bản sao trang đầu của hồ sơ một vụ kiện. Email này không có tựa đề, và cũng không có lời giải thích nào về trang đầu của hồ sơ vụ kiện được gửi kèm.
Văn bản không lời giải thích gửi kèm email này khiến nhiều người đọc thoáng qua hiểu lầm rằng đó là tài liệu ông Tú kiện HRV PAC, SBTN, Việt Tân, và cựu Dân Biểu Loretta Sanchez.
Tài liệu này là của vụ kiện mang số: Case: 1-17-mc-01048, do ông Tú là nguyên đơn, nộp tại tòa sơ thẩm liên bang ở thủ đô Washington, DC. Trong đơn, ông Tú kiện FEC, liên quan đến hồ sơ khiếu nại của ông với cơ quan này liên quan đến bốn tổ chức, công ty, và cá nhân nêu trên.
Ông Tú giải thích: “Đơn kiện của tôi được nộp ngày 25 tháng Tư. Tôi nộp đơn kiện, vì nếu thắng thì sẽ có được một cuộc điều tra hình sự, còn nếu thua thì tôi cũng lập được một tập hồ sơ về những mưu đồ bất lương, và bản chất của điều này (lập được tập hồ sơ), cũng là một chiến thắng, vì những bên liên quan sẽ không dám tiếp tục hành vi phạm tội của họ.”
Theo tài liệu dài 61 trang của vụ kiện, ông Tú kiện FEC với tòa án, vì ông không đồng ý việc cơ quan này bác đơn khiếu nại trước đây của ông. Trong đơn kiện, ông Tú gọi quyết định của FEC là “tùy tiện và phi lý.”
Ngày 11 Tháng Sáu, 2016, ông Tú nộp đơn khiếu nại với FEC rằng Ủy Ban Vận Động Tranh Cử của Dân Biểu Sanchez, gồm HRV PAC, SBTN, đảng Việt Tân, cá nhân bà, và một số nhân sự cao cấp của đảng Việt Tân như ông Đỗ Hoàng Điềm (chủ tịch), ông Hoàng Tứ Duy (phát ngôn viên),v.v… có thể đã vi phạm Đạo Luật FECA 1971, liên quan đến tranh cử liên bang.
Theo khiếu nại của ông Tú, những tổ chức, công ty, và cá nhân nêu trên đã vi phạm FECA 1971, cụ thể qua bốn điểm: 1) Người nước ngoài có thể đã đóng góp cho quỹ tranh cử của bà Sanchez, 2) Công ty SBTN có thể đã đóng góp cho quỹ tranh cử của bà Sanchez, 3) Công ty SBTN có thể đã đóng góp cho HRV PAC, và 4) HRV PAC có thể đã không minh bạch liệt kê tiền đóng góp nhận được theo luật định.
FEC bác đơn khiếu nại
Theo luật định, sau khi nhận đơn khiếu nại, FEC có năm ngày để báo cho người bị khiếu nại là họ phải phúc đáp trong vòng 15 ngày. Sau khi nhận được phúc đáp, FEC sẽ xem xét và đánh giá cả đơn khiếu nại lẫn phúc đáp của những người bị tố cáo để đi đến một trong ba quyết định thích hợp: 1) Có lý do để tin (những điều khiếu nại), 2) Bác bỏ khiếu nại, 3) Bác bỏ khiếu nại, nhưng gửi thư cảnh cáo, và 4) Không có lý do gì để tin.
Nếu thấy là “không có lý do gì để tin” là (những) người bị tố cáo đã hoặc đang vi phạm luật tranh cử liên bang, FEC sẽ bác đơn khiếu nại, hồ sơ bị xếp lại và các bên liên quan được thông báo. Ngược lại, nếu thấy là “có lý do để tin” rằng (những) người bị tố cáo đã hoặc đang vi phạm pháp luật, FEC có thể sẽ mở một cuộc điều tra.
Ngày 7 Tháng Ba, FEC gửi thư cho ông Tú thông báo là họ đã cứu xét đơn khiếu nại của ông, cũng như đánh giá phúc đáp của những người bị ông tố cáo, và thấy rằng “không có lý do gì để tin” là những người này vi phạm luật tranh cử liên bang. FEC giải thích tỉ mỉ quyết định của họ về từng điều ông Tú khiếu nại:
-Về chuyện SBTN có thể đã đóng góp cho quỹ tranh cử của bà Sanchez, FEC viết rằng, “luật tranh cử liên bang cấm các công ty đóng góp cho quỹ tranh cử của một dân biểu liên bang, cũng như cấm những ứng cử viên cho những chức vụ liên bang nhận tiền đóng góp hay cả những đóng góp không dùng tiền mặt của các công ty.” FEC lập luận là ủy ban tranh cử của bà Sanchez đã giải thích rằng họ trả tiền cho đài SBTN để đài này chiếu những buổi vận động tranh cử. Chứng cớ do ủy ban tranh cử cung cấp cho FEC cho thấy đài SBTN nhận lệ phí để đồng ý chiếu 3 giờ quảng cáo vận động tranh cử, cộng với chiếu 6 quảng cáo mỗi ngày trong vòng một tháng. Chứng cớ cũng cho thấy ủy ban tranh cử đã trả cho đài SBTN số tiền $4,500 cho những thời gian phát hình này.”
-Về chuyện SBTN có thể đã đóng góp cho HRV PAC, FEC chỉ ra rằng “đơn khiếu nại tố cáo là SBTN đã thiết lập và tài trợ cho tổ chức HRV PAC chỉ dựa trên lý do là hai nhân viên của SBTN cũng là nhân viên của HRV PAC.” FEC cho biết họ thấy “chi tiết này không đủ để chứng minh là SBTN đã đóng góp cho quỹ vận động tranh cử của bà Sanchez, và vì thế không thấy SBTN vi phạm luật tranh cử liên bang.”
-Về chuyện người nước ngoài có thể đã đóng góp cho quỹ tranh cử của Sanchez, FEC viết rằng, “luật tranh cử liên bang cấm người nước ngoài đóng góp cho bất cứ cuộc tranh cử nào, từ cấp địa phương đến liên bang,” và giải thích thêm: “Khiếu nại viết rằng ủy ban tranh cử của bà Sanchez mướn cô Lily Nguyễn, một thành viên của đảng Việt Tân, để được những thành viên của đảng này đóng góp vào quỹ tranh cử. Nhưng khiếu nại không đưa ra được chứng cớ nào về việc này, mà cũng không chứng minh được những thành viên của đảng Việt Tân đóng góp vào quỹ tranh cử là người nước ngoài. Ngược lại, một bản tường trình của ủy ban tranh cử nộp cho FEC cho thấy tất cả những người đóng tiền vào quỹ tranh cử đều có địa chỉ trong nước Mỹ.”
-Về chuyện HRV PAC có thể đã không minh bạch liệt kê tiền đóng góp nhận được, FEC khẳng định rằng, “là một một ủy ban hành động chính trị đa ứng cử viên, HRV PAC bắt buộc phải tường trình minh bạch về chi thu theo luật định.” Nhưng FEC giải thích là “đơn khiếu nại tố cáo rằng HRV PAC không liệt kê tên một số người đóng tiền, và nói dối về việc gửi tiền về những tổ chức ở Việt Nam, nhưng lại không đưa ra được chứng cớ nào khả dĩ thuyết phục. Trong khi đó, khi xem xét một danh sách một số tiền đóng góp tiêu biểu, FEC thấy rằng tiền những người này đóng góp đều được HRV PAC tường trình theo luật định.”
Tóm lại, chưa có chứng cớ nào cho thấy ông Nguyễn Thanh Tú đã nộp đơn kiện HRV PAC, đài SBTN, đảng Việt Tân, và bà Sanchez, mà chỉ có đơn kiện FEC do ông nộp ngày 25 Tháng Tư.

Trong đơn này ông yêu cầu tòa sơ thẩm liên bang: 1) Công bố rằng việc FEC bác đơn khiếu nại của ông là một việc làm tùy tiện và phi lý, 2) Ra lệnh cho FEC xét đơn khiếu nại của ông theo đúng luật trong vòng 30 ngày, và 3) Đòi FEC phải đền cho ông tiền án phí và lệ phí trả luật sư liên quan đến vụ kiện.
Trả lời câu hỏi của nhật báo Người Việt là đơn kiện FEC này có liên quan đến việc ông và bà Michelle Dương bị đảng Việt Tân kiện tội tiếm danh không, ông Nguyễn Thanh Tú đáp: “Không, không, điều này (kiện FEC) luôn luôn nằm trong chiến lược vĩ đại của tôi. Bà Michelle Dương không phải là luật sư của tôi trong vụ này, mà cũng không hay biết gì về chiến lược này của tôi cả.”
Liên lạc tác giả: hagiang@nguoi-viet.com

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2018

Mỹ sửa luật CAATSA theo hướng có lợi cho Việt Nam

(Quốc phòng Việt Nam) - The Economic Times vừa đăng tải thông tin đáng chú ý về việc Mỹ đồng ý đưa một số quốc gia khỏi danh sách bị trừng phạt nếu mua vũ khí Nga.

The Economic Times cho biết, Quốc hội Hoa Kỳ đã hành động để loại bỏ "thanh kiếm" treo trên mối quan hệ Mỹ - Ấn Độ. Nguồn gốc lớn nhất đe dọa gây ảnh hưởng tới quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước đã được dỡ bỏ, sự thay đổi tới vào hôm Thứ hai vừa qua sau nhiều suy xét.
Ủy ban của Thượng viện và Hạ viện Mỹ đã thống nhất thông qua ấn bản chính thức của Dự luật hàng năm về chính sách quốc phòng, điều này sẽ sửa đổi Đạo luật chống đối thủ của Mỹ thông qua biện pháp trừng phạt - CAATSA, một đạo luật chủ yếu nhằm vào Nga nhưng đủ rộng để bao trùm lên cả bạn lẫn kẻ thù.

Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam giờ đây đã được miễn trừ CAATSA và có thể tiếp tục mua sắm thiết bị quân sự từ Nga, nhưng văn bản cuối cùng trong Đạo luật Ủy quyền Quốc phòng cho năm 2019 không thông qua danh sách mở rộng tới mức như Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis mong muốn.
Đây là một sự điều chỉnh có cân nhắc, yêu cầu được Tổng thống Donald Trump thông qua và chỉ định các tiêu chí nhất định phải được đáp ứng.
My sua luat CAATSA theo huong co loi cho Viet Nam
Tiêm kích F-16 Block 70 được phía Mỹ chào bán cho Ấn Độ trong gói thầu MMRCA
Cuộc vận động hành lang bền bỉ của Bộ trưởng James Mattis trên đồi Capitol trong suốt mấy tháng qua đã có kết quả và dẫn đến những thay đổi trên.
Ông đã gặp gỡ các thành viên của Thượng viện và Hạ viện, tham dự một số buổi điều trần và viết nhiều bức thư thuyết phục. Tuyên bố cuối cùng của ông được đưa ra hôm thứ sáu khi Ủy ban hoàn thiện văn bản ghi rõ:
"Câu hỏi cơ bản mà chúng ta phải tự hỏi chính là chúng ta có muốn tăng cường quan hệ đối tác với những quốc gia ở khu vực quan trọng hay không, hoặc rời bỏ để họ không còn lựa chọn nào khác ngoài Nga, qua đó phá hoại cơ hội trong cả một thế hệ để gắn kết chặt chẽ hơn các nước nằm trong tầm nhìn của Mỹ về an ninh và ổn định toàn cầu", ông Mattis nói.
Ông Mattis nhấn mạnh rằng bất cứ biện pháp trừng phạt nào của Mỹ đối với Ấn Độ cũng sẽ kéo lùi mối quan hệ trở lại ít nhất một thập kỷ, thậm chí nhiều hơn. Các nghị sĩ đã lắng nghe ông, một cựu tướng và cũng là thành viên được kính trọng nhất trong nội các.
My sua luat CAATSA theo huong co loi cho Viet Nam
Trực thăng đa dụng của hải quân MH-60R Seahawk đang phóng tên lửa chống tăng Hellfire
Chính quyền Tổng thống Trump đã đưa ra hai điều kiện miễn trừ CAATSA cho Ấn Độ và yêu cầu New Delhi phải đáp ứng ít nhất một, đó là giảm phụ thuộc vào Nga và tăng cường đáng kể hợp tác với Hoa Kỳ, cả hai điều kiện trên được New Delhi đáp ứng khá dễ dàng.
Việc mua sắm quốc phòng của Ấn Độ thực sự khá đa dạng theo thời gian. Các công ty quốc phòng Mỹ trên thực tế đã vượt đối thủ đến từ Nga.
Trong 3 năm qua, New Delhi đã ký 13 hợp đồng với phía Mỹ, tổng giá trị đạt 228 tỷ Rupi, trong khi với Nga chỉ là 12 hợp đồng trị giá 88 tỷ Rupi, số liệu trên được Quốc hội Ấn Độ cung cấp.
Tuy nhiên Quốc hội Hoa Kỳ vẫn có thể phản đối việc Ấn Độ mua hệ thống tên lửa phòng không S-400 Triumf của Nga và điều này sẽ đe dọa ít nhiều tới hợp tác quốc phòng giữa Washington và New Delhi trong tương lai.
Nhưng trên hết, như Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ từng đề cập đến việc miễn trừ CAATSA cho các quốc gia trên hồi tháng 5/2018 vì họ "Có xu hướng mua thêm vũ khí của Mỹ", giới tài phiệt nước này chắc chắn không muốn bỏ lỡ cơ hội xâm nhập những thị trường đầy tiềm năng mà việc áp dụng biện pháp cấm vận mang lại hại nhiều hơn lợi.
  • Chí Linh

Thứ Ba, 24 tháng 7, 2018

Chủ nhà tại Mỹ kiện khách vì phàn nàn 140 từ trên mạng xã hội

Liệu việc đưa ra ý kiến trên Twitter có thể bị coi là bôi nhọ người khác được không?

Tổng thống Mỹ thường dùng Twitter để đăng tin. Ảnh: Dsim
Tổng thống Mỹ thường dùng Twitter để đăng tin. Ảnh: Dsim
Tập đoàn bất động sản Horizon là một trong những công ty quản lý và cho thuê căn hộ hàng đầu của thành phố Chicago, Mỹ. Vận hành theo hình thức gia đình trị, tập đoàn Horizon bắt đầu đi vào kinh doanh từ năm 1980 và khá thành công trong lĩnh vực cho thuê căn hộ chung cư.
Sáng 12/5/2009, khó chịu vì tình trạng căn phòng của mình, Amanda Bonnen, cô gái 25 tuổi thuê nhà tại một chung cư thuộc quản lý của Horizon, đã dồn sự bất mãn vào một dòng ngắn ngủn trên trang mạng xã hội Twitter gửi cho bạn mình: “Cậu cứ tới đây đi. Ai bảo ngủ trong phòng bị ẩm mốc là không tốt cho sức khỏe nào? Horizon lại nghĩ là ổn đấy”. Trang cá nhân của Amanda lúc này chỉ có 20 người theo dõi.
Sự việc có lẽ sẽ dừng lại ở đó nếu Horizon tiếp nhận lời phản ánh của Amanda – vốn là khách hàng lâu năm và nhanh chóng cử nhân viên tới xem xét và xử lý vấn đề trong căn hộ cho thuê. Tập đoàn Horizon lập tức khởi kiện trong khi chưa cố gắng giải quyết vấn đề giữa mình và Amanda.
“Chúng tôi là dạng tổ chức kiện trước rồi hỏi sau”, Jeffrey Michael, người đứng đầu tập đoàn Horizon khẳng định khi trả lời phỏng vấn của tờ Chicago Sun-Times về vụ việc. Ông còn cho biết Horizon chưa từng đề cập với Amanda về dòng tweet và cũng chưa từng đề nghị cô gỡ bỏ dòng cập nhật trạng thái.
Horizon khởi kiện Amanda tại tòa kinh lý hạt Cook, thành phố Chicago trên căn cứ cô đã gây thiệt hại tới uy tín và hoạt động kinh doanh của công ty. Trong đơn khởi kiện, Horizon khẳng định nội dung dòng tweet của Amanda là “hoàn toàn sai sự thật” và “uy tín công ty trong lĩnh vực cho thuê căn hộ ở Chicago đã bị thiệt hại nghiêm trọng”.
Jeffrey Michael. Ảnh: Yelp.com
Jeffrey Michael. Ảnh: Yelp.com
“Hành động của bị đơn đăng tải dòng tweet sai sự thật và có tính chất bôi nhọ phỉ báng là sai trái và chứa đầy ác ý”, Horizon cáo buộc trong đơn. Horizon còn cho rằng: Vì Amanda cài đặt trang cá nhân ở chế độ “mọi người”, cô đã cố ý để dòng tweet lan tỏa ra khắp thế giới. Trong yêu cầu khởi kiện, tập đoàn Horizon yêu cầu Amanda phải trả khoản tiền bồi thường lên tới 50.000 USD (hơn một tỷ đồng) cho dòng trạng thái chưa đầy 140 kí tự.
Ngoài dự liệu của Horizon, vụ kiện nhanh chóng nhận được sự chú ý của dư luận toàn nước Mỹ và được nhiều tờ báo đưa tin đăng tải. Số người biết tới dòng tweet sau đó đã không chỉ dừng lại ở con số 20 người theo dõi trang cá nhân của Amanda mà nhanh chóng trở thành chủ đề nóng bỏng trên trang mạng Twitter; cụm từ “bất động sản Horizon” xếp hạng thứ 3 trong số từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất trong ngày.
Để bảo vệ bản thân, Amanda Bonnen thuê Leslie Ann Reis, Giám đốc văn phòng luật Balough tại Trung tâm Công nghệ thông tin và Luật Bí mật đời tư, làm người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình trước tòa. Câu hỏi mấu chốt trong vụ việc này là: Liệu việc đưa ra ý kiến trên mạng xã hội như Twitter có thể bị coi là bôi nhọ người khác được không?
Phía Horizon lập luận rằng: “Nhiều người đã sử dụng Twitter để đưa tin cập nhật trực tiếp sự kiện, để kêu gọi ủng hộ cho các phong trào và để tiến hành hoạt động marketing”. Chính vì vậy, ta cần coi Twitter là một ấn phẩm không khác gì các dạng ấn phẩm khác, và người dùng Twitter cần phải có trách nhiệm với lời nói của mình.
Dòng tweet của Amanda. Ảnh: Businessinsider
Dòng tweet của Amanda. Ảnh: Businessinsider
Theo trang Findlaw, phía bảo vệ cho Amanda đáp trả rằng dòng tweet trên không hội đủ tiêu chí để cấu thành hành vi bôi nhọ, theo quy định của bang Illinois. Một tiêu chí trong đó là lời bôi nhọ phải chỉ đích danh nguyên đơn. Nhưng dòng trạng thái không hề cho biết địa điểm của Amanda hoặc thể hiện là cô đang sống ở căn hộ do Horizon quản lý. "Cô chỉ đơn thuần đưa ra ý kiến của mình về Horizon, không hề cố chỉ ra thực tế khách quan", tờ Huffingtonpost đưa tin.
Hơn nữa, theo luật, nguyên đơn phải chứng minh được dòng tweet là sai sự thật và có tính chất bôi nhọ, nhưng Horizon lại không chứng minh được căn hộ Amanda không hề có ẩm mốc. Nguyên đơn cũng cần chứng minh là có hậu quả thực tế do hành vi bôi nhọ gây ra (ví dụ: thiệt hại về kinh tế) song điều này là rất khó.
Sau khi nghe hết lập luận của hai bên, thẩm phán Diane Larsen đã bác đơn kiện của phía Horizon trên căn cứ: Dòng tweet quá mơ hồ để cấu thành hành vi bôi nhọ theo pháp luật.
Quốc Đạt

Thứ Hai, 23 tháng 7, 2018

Mỹ: Hành khách tung tin máy bay có bom để không bị lỡ chuyến - Tin Dân trí

Một người đàn ông ở bang Ohio, Mỹ đã bị bắt và phải ra hầu tòa sau khi tung tin thất thiệt rằng máy bay có bom để anh ta không bị lỡ chuyến bay do đến sân bay trễ giờ.


Một máy bay của hãng United (Ảnh minh họa: Getty)
Một máy bay của hãng United (Ảnh minh họa: Getty)
 

Theo trang tin Hexington Herald Leader, Dana Carter, 40 tuổi, sống tại thành phố Dayton, Ohio và một phụ nữ đi đã bị muộn chuyến bay của hãng United Airlines bay từ sân bay Cincinnati, phía bắc Kentucky tới Dallas,Texas hồi tháng 10/2016.
Để ngăn máy bay không cất cánh theo lịch trình dự kiến, người đàn ông này đã gọi hàng loạt cú điện thoại thông báo rằng có bom trên máy bay mà anh ta bị lỡ chuyến, theo Dayton Daily News. Vào 14h58 ngày 22/10/2016, tức là còn 21 phút trước khi máy bay cất cánh, chuyến bay đã bị hủy do đội ngũ an ninh lo ngại về mối đe dọa có bom trên máy bay. Vào thời điểm đó, báo cáo cho biết, Carter và người đi cùng vẫn đang ở cách sân bay 20 phút di chuyển.
Sau khi chuyến bay bị hủy, 2 người đã đến sân bay và được hãng United Airlines chuyển sang chuyến bay muộn hơn 2 giờ so với lịch bay cũ.

Tuy nhiên, âm mưu của Carter đã bị bại lộ sau khi cảnh sát tham gia tìm kiếm "quả bom giả" và điều tra ra chân tướng sự việc. Người đàn ông này đã bị bắt và đưa ra hầu tòa. Trước tòa án, Carter đã khai chi tiết hành vi, thừa nhận mình có tội. Ngay cả luật sư của người đàn ông này, ông F. Dennis Alerding, cũng gọi việc tung báo động bom giả trên máy bay là “hành động ngu ngốc”.
Ngày 19/7, Carter đã bị tòa án tuyên phạt 4 tháng tù giam và bị yêu cầu bồi thường 7.700 USD cho hãng United Airlines vì làm chuyến bay bị hủy. Người đàn ông này cũng sẽ bị quản chế liên bang trong 3 năm sau khi ra tù.
Đức Hoàng

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2018

Luật sư của Will Nguyễn: ‘trục xuất’ là bài toán khôn ngoan (Tin VOA)


Công dân Mỹ Will Nguyễn bị dẫn đến Tòa án Nhân dân Tp. HCM sáng ngày 20/7/2018.
Luật sư bào chữa cho công dân Mỹ William Nguyễn nói với VOA rằng mức phạt ‘trục xuất’ thể hiện bài toán khôn ngoan và có thỏa thuận của chính quyền Việt Nam.
Sau khi tham gia bào chữa cho bị cáo Will Nguyễn trong phiên xử ngày 20/7, luật sư Trịnh Vĩnh Phúc chia sẻ với VOA:
“Xử mức án trục xuất thì tôi cho rằng đây là bài toán khôn ngoan, có sự tính toán và có thể có một sự thỏa thuận nào đó giữa hai chính phủ.”
Xử mức án trục xuất thì tôi cho rằng đây là bài toán khôn ngoan, có sự tính toán và có thể có một sự thỏa thuận nào đó giữa hai chính phủ.
Luật sư Trịnh Vĩnh Phúc
Kết thúc phiên tòa xét xử nam thanh niên công dân Mỹ gốc Việt 32 tuổi về tội ‘gây rối trật tự công cộng, tòa tuyên Will Nguyễn mức phạt là trục xuất ngay lập tức, kèm theo một mức phạt tiền.
Truyền thông Việt Nam cho biết xét bị cáo thành khẩn khai báo, toà không áp dụng hình phạt tù là “thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.” Ngoài ra, toà cũng tuyên hủy bỏ biện pháp ngăn chặn là tạm giam với bị cáo, và hoàn trả tài sản bị thu giữ.
Luật sư Phúc chia sẻ thêm rằng mức án áp dụng cho công dân Mỹ này thấp hơn so với những vụ tham gia biểu tình khác:
“Nếu xét ra thì rõ ràng mức án cho Will Nguyễn như thế là mức án thấp so với xử một số vụ án khác về việc tham gia biểu tình. Như vậy đã tạm thỏa mãn đôi bên. Chúng tôi thấy rằng phiên tòa này vừa mang tính pháp lý và cũng có yếu tố quan hệ ngoại giao.”
Luật sư Trịnh Vĩnh Phúc cho biết thêm:
“Phiên tòa này kết thúc trong sự chấp thuận, đồng tình của bị cáo, của gia đình và của luật sư. Bị cáo không kháng cáo. Tòa áp dụng mức trục xuất là mức án thấp dành cho người nước ngoài. Trước phiên tòa chúng tôi vào trại giam gặp Will và Will cũng rất mong được áp dụng hình thức trục xuất. Do đó khi đại diện Viện Kiểm sát đề xuất hình phạt trục xuất thì chúng tôi thấy nhẹ nhõm đi. Bài bào chữa của hai luật sư cũng được thay đổi, rút ngắn… và đồng tình theo hướng đó.”
E

Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2018

Bản cáo trạng truy tố các sĩ quan Nga can thiệp bầu cử

Vào lúc một cuộc bầu cử tổng thống Mỹ bước vào chặng cuối trong năm 2016, 12 sĩ quan tình báo quân đội Nga khắp Moscow đã tiến hành một chiến dịch tấn công tin tặc quy mô lớn nhằm khuynh đảo cuộc bầu cử.
Đó là cáo buộc được đưa ra trong một bản cáo trạng (Special Counsel Indictment July 13, 2018) công bố hôm thứ Sáu nói rằng những sĩ quan này đã phát triển những mã máy tính độc hại được gọi là malware, xâm nhập các máy tính của Đảng Dân chủ và âm thầm theo dõi trong khi các nhân viên Đảng Dân chủ gõ bàn phím nhập mật khẩu.
Người Nga đã đánh cắp các tập tin bí mật của phe Dân chủ. Họ chụp lại màn hình.. Họ sử dụng email giả mạo để lừa các nhân viên của Hillary Clinton đưa mật khẩu cho họ.
Những tài khoản email của John Podesta, chủ tịch ban vận động tranh cử của Hillary Clinton, bị người Nga đột nhập. Những email của ông sau đó bị phát tán trên trang Wikileaks.
Những tài khoản email của John Podesta, chủ tịch ban vận động tranh cử của Hillary Clinton, bị người Nga đột nhập. Những email của ông sau đó bị phát tán trên trang Wikileaks.
Và rồi, bản cáo trạng nói, người Nga đã tung những thông tin bị đánh cắp ra cho cả thế giới xem.
Dưới đây là những điểm chính trong bản cáo trạng:
Vụ xâm nhập tin tặc dính líu tới các cấp cao nhất của chính phủ Nga
Bản cáo trạng cho biết Tổng cục Tình báo của Bộ Tổng Tham mưu Lực lượng Vũ trang Liên bang – được gọi là GRU – đã chỉ đạo nhiều đơn vị “tiến hành các hoạt động trên mạng quy mô lớn” để can thiệp vào cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016.
Một trong những đơn vị này nằm trên một con đường không có gì đáng chú ý ở khu ngoại ô Khimki của Moscow, trong một tòa nhà mà người bên trong GRU gọi là “Tháp,” theo bản cáo trạng. Một đơn vị khác nằm gần trung tâm Moscow, không xa trụ sở Bộ Quốc phòng.
Tổng thống Nga Vladimir Putin luôn khẳng định rằng Nga không dính dáng tới việc tấn công tin tặc hay bất kì nỗ lực nào nhằm can thiệp vào các cuộc bầu cử của Mỹ. Nhưng GRU là một phần của bộ máy nhà nước, và sự tham gia của họ cho thấy ông Putin đã can dự sâu vào nỗ lực này.
Vụ xâm nhập tin tặc là một hoạt động tinh vi
Theo bản cáo trạng, hoạt động xâm nhập tin tặc của Nga chính xác đến độ họ có thể xác định được những máy tính cụ thể bên trong cánh vận động tranh cử Đảng Dân chủ ở Hạ viện, Ủy ban Vận động tranh cử Quốc hội Đảng Dân chủ và Ủy ban Đảng Dân chủ Toàn quốc chứa những thông tin liên quan đến cuộc bầu cử. Họ đã có thể lục tìm trong các máy tính này những thuật ngữ nhất định, như “Hillary,” “Cruz” và “Trump.” Họ cũng sao chép các thư mục, bao gồm thông tin gây tổn hại về đối phương và kế hoạch hoạt động trên thực địa.
Người Nga che giấu sự can dự của họ thông qua các địa chỉ email và danh tính giả tạo và một mạng lưới các máy tính đặt khắp thế giới - kể cả ở Mỹ. Họ trả tiền cho cơ sở hạ tầng của mình bằng cách sử dụng tiền ảo bitcoin.
Trump kêu gọi Nga tấn công tin tặc Clinton – Và họ đã làm như vậy
Bản cáo trạng nói người Nga sử dụng “spearphishing” — một kĩ thuật dùng để đánh cắp mật khẩu hoặc truy cập vào máy tính — trong suốt mùa hè năm 2016 để xâm nhập máy tính của các cá nhân có liên hệ tới ban vận động Clinton.
Một nỗ lực được nhắc tới trong bản cáo trạng dường như được thực hiện chỉ vài giờ sau khi ông Donald Trump kêu gọi người Nga tìm kiếm các email của bà Clinton. Vào sáng ngày 27 tháng 7 năm 2016, ông Trump có một bài phát biểu mà trong đó ông nói “Nga, nếu các bạn đang lắng nghe,” ông rất muốn xem qua hàng ngàn email mà bà Clinton nói là riêng tư mà bà đã xóa thời bà còn làm bộ trưởng ngoại giao
Bản cáo trạng chỉ ra một nỗ lực xâm nhập trong cùng ngày, nói rằng “sau giờ làm việc” người Nga đã cố gắng “spearphish lần đầu tiên các tài khoản email tại một tên miền được lưu trữ bởi một nhà cung cấp bên thứ ba và được sử dụng bởi văn phòng cá nhân của Clinton.” Cùng thời điểm đó, bản cáo trạng cho biết, họ nhắm mục tiêu vào 76 địa chỉ email tại tên miền của ban vận động Clinton.
Tổng cộng, bản cáo trạng nói rằng người Nga đã nhắm mục tiêu vào hơn 300 cá nhân liên quan đến ban vận động Clinton, Ủy ban Vận động tranh cử Quốc hội Đảng Dân chủ và Ủy ban Đảng Dân chủ Toàn quốc.
Người Nga liên lạc với một người có liên hệ tới Trump
Bản cáo trạng không cáo buộc bất kì người Mỹ nào, kể cả các quan chức ban vận động Trump, cố tình liên lạc dù biết những người Nga này là nhân viên tình báo. Nhưng bản cáo trạng cũng nói rằng những người Nga này đã liên lạc với một người không được nêu danh tính mà “thường xuyên liên lạc với các thành viên cao cấp của ban vận động tranh cử tổng thống của Donald J. Trump.”
Vào ngày 15 tháng 8 năm 2016, những người Nga này viết, theo bản cáo trạng: “cảm ơn bạn đã hồi âm ..... bạn có tìm thấy thứ gì thú vị trong những tài liệu tôi đăng lên không?”
Hai ngày sau, những người Nga này nói thêm, “hãy cho tôi biết nếu tôi có thể giúp bạn bằng bất cứ cách nào ... tôi sẽ rất vui lòng.”
Vào tháng 9, những người Nga này liên lạc với nhân vật này một lần nữa và nhắc tới một tài liệu bị đánh cắp từ Ủy ban Vận động tranh cử Quốc hội Đảng Dân chủ và được đăng lên mạng. “Bạn nghĩ gì về thông tin về mô hình số lượng cử tri đi bỏ phiếu cho đảng dân chủ suốt toàn bộ chiến dịch tranh cử tổng thống.”
Người này trả lời, “khá là chuẩn,” theo bản cáo trạng.
Người Nga đánh cắp thông tin cử tri
Bản cáo trạng nói người Nga đã xâm nhập website của một ủy ban bầu cử cấp bang và đánh cắp thông tin của khoảng 500.000 cử tri, bao gồm tên, địa chỉ, số an sinh xã hội, ngày sinh và số bằng lái xe. Họ cũng đã xâm nhập một đơn vị chuyên cung cấp phần mềm dùng để xác minh thông tin đăng ký cử tri trong các cuộc bầu cử toàn quốc.
Các quan chức liên bang cho biết các địa điểm bầu cử cấp bang tại ít nhất 18 bang đã bị người Nga vào lùng sục. Bản cáo trạng thêm các văn phòng quận hạt — đặc biệt là ở các bang Georgia, Florida và Iowa — vào một danh sách các địa điểm quản lí bầu cử mà người Nga được nói là đã đột nhập để “xác định những lỗ hổng.”
Các quan chức Bộ An ninh Nội địa nói không có bằng chứng về bất cứ kết quả bầu cử nào bị can thiệp trong những vụ xâm nhập hồi năm 2016.

... chọn thẩm phán Brett Kavanaugh vào Tối Cao Pháp Viện

Vu Linh

Tiếp theo cả chục ngày nín thở chờ tin, tối Thứ Hai vừa qua, TT Trump đã thông báo cho cả nước biết ông đã chọn thẩm phán Brett Kavanaugh vào Tối Cao Pháp Viện thay thế thẩm phán Anthony Kennedy về hưu.
Chuyện này quan trọng hay không, quan trọng đến mức nào, có hậu quả ra sao liên quan đến đời sống chúng ta, người dân bình thường? Đó là những chuyện cả triệu người đang thắc mắc.
Trước hết ta nói về tiến trình bổ nhiệm.
Đây quả thực là một tuyệt chiêu về nghệ thuật quảng cáo hàng của đại doanh gia Trump. Chưa bao giờ trong lịch sử bổ nhiệm hơn 100 thẩm phán TCPV lại có một vị được bổ nhiệm một cách rình ràng và thu hút được sự chú ý của cả nước như lần này. Tổng thống hẹn chắc việc tuyển lựa quan tòa từ cả chục ngày trước, khiến cho báo chí chạy tin trên trang nhất, đoán mò cả chục ngày liền, mà lạ lùng thay, tên của người được tuyển đã không bị xì ra! Rồi đúng 9 giờ tối Thứ Hai, gần như tất cả các đài truyền hình trực tiếp thu hình cuộc họp báo của TT Trump thông báo quyết định của ông, và cả chục triệu người bị hút hồn, chỏ mõ ngồi chờ và coi. Chú tâm của khách hàng là yếu tố quan trọng nhất trong nghệ thuật tiếp thị chứ quảng cáo món hàng đó tốt mà chẳng ai để ý thì chỉ là công cốc.
TT Trump cũng đã đoán trước bất cứ ông bổ nhiệm ai cũng sẽ bị phe cấp tiến chống đối, nên muốn hô hào quần chúng đến xem cuộc chiến ngay từ đầu, cho thật đông, để họ có thể nghe ông và nghe ông Kavanaugh, và phán xét một cách chính xác, thay vì không biết gì, chỉ ngồi nhà đọc báo và nghe TTDC xuyên tạc.
Ta thử coi lại món hàng ông Trump đang rao bán.
Trong thể chế chính trị Mỹ, với việc tam quyền phân lập, có ba hệ thống riêng biệt là hành pháp, tức là tổng thống và nội các, lập pháp tức là hai viện quốc hội, và tư pháp tức là hệ thống tòa án, đứng đầu là Tối Cao Pháp Viện.
Trên nguyên tắc, nghe có vẻ ba bên ngang ngửa quyền hành rất lớn. Lập pháp ra luật cho cả nước, hành pháp thi hành những luật đó, và tư pháp bảo đảm việc tôn trọng những luật đó. Không có luật thì loạn, có luật mà không ai thi hành thì cũng như không, thi hành không nghiêm chỉnh cũng loạn. Trên thực tế, có lẽ TCPV có quyền lớn nhất vì các ông tòa này có quyền quyết định những luật do lập pháp ban ra có giá trị hay không, có thể được hành pháp thi hành hay không, và hành pháp thi hành có đúng không.
Nhưng điểm quan yếu nhất là tổng thống, nội các, dân biểu và nghị sĩ đều có thể bị thay đổi như chong chóng, nhưng quan tòa thì ngồi suốt đời đến chết hay đến khi... quá già yếu tự ý từ nhiệm. Thậm chí đến lúc ngồi đâu ngủ gật đó vẫn chưa về hưu mà chẳng ai đuổi được. Đặc biệt hơn nữa, quyết định của hành pháp hay luật của lập pháp cũng đều có thể thay đổi theo mùa bầu cử, nhưng án quyết của các quan tòa, nhất là quan tòa TCPV thì chắc hơn xi-măng cốt sắt, không lay chuyển cả trăm năm, hay ít nhất cũng cả thế hệ.
TCPV là cơ quan tối cao có thẩm quyền diễn giải Hiến Pháp và bảo đảm tất cả mọi luật của lập pháp và mọi hành động của hành pháp đều tuân thủ theo Hiến Pháp nguyên thủy và các án quyết diễn giải sau đó. Và đây lại là điểm ‘yếu’ của tư pháp: không có quyền tạo ra luật mà chỉ có quyền diễn giải luật thôi.
Đó là trách nhiệm căn bản của TCPV từ ngày được thành lập cho đến nay. Nhưng trách nhiệm đó đã mang lại nhiều tranh cãi ngay từ những ngày lập quốc. Câu hỏi là làm sao một văn kiện được một nhúm người gọi là ‘Cha Già Lập Quốc’ của đất nước này soạn thảo cách đây xấp xỉ 250 năm lại có thể có giá trị vĩnh viễn, một cách tuyệt đối mà không ai có quyền sai phạm?
Vì Hiến Pháp chính là nền tảng của liên bang Hợp Chủng Quốc, là chất keo gắn chặt 50 tiểu bang. Mất Hiến Pháp, liên bang tan rã.
Đây có lẽ là điểm quan trọng nhất phân biệt hai khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến liên quan đến TCPV. Phe bảo thủ, gọi là constitutionalist hay originalist, chủ trương tuyệt đối tuân thủ Hiến Pháp, và diễn giải cũng tuyệt đối theo ý nguyện/ý định của các Cha Già Lập Quốc khi họ viết ra Hiến Pháp. Trong khi phe cấp tiến cho rằng Hiến Pháp chỉ là một tài liệu nền tảng căn bản và việc thi hành cần phải uyển chuyển, lưu ý đến những thay đổi của thời thế. Họ chủ trương cái mà họ gọi là ‘Living Constitution’, tức là một Hiến Pháp sống, linh động, có thể được diễn giải và thi hành theo nhu cầu thời thế, hay nói cách khác họ cho là các quan tòa có quyền ra luật mới. Nói huỵch tẹt ra, phe DC chủ trương cho Hiến Pháp vào nhà quàn vì đó là một xác chết, không có ‘living’. Tương lai của đảng DC? Hãy nhìn vào cô Ocasio-Cortez.
Hiến Pháp là nền tảng phải tuân thủ, không có nghĩa không thể thay đổi. Nếu muốn và nếu cần, vẫn có thể sửa đổi gọi là ‘tu chính’ được. Cho đến nay Hiến Pháp đã được tu chính 27 lần, không có gì cấm tu chính nữa. Ai muốn thì cứ lên tiếng để dân Mỹ thay đổi Hiến Pháp, chỉ cần tuân theo đúng thủ tục thôi.
Một khác biệt quan trọng nữa giữa hai khối bảo thủ và cấp tiến: đó là quan điểm cá nhân của các quan tòa. TT Trump khi đọc bài phát biểu giới thiệu TP Kavanaugh đã nói rất rõ: “Khi nói chuyện với ông Kavanaugh, tôi đã không hỏi gì về ý kiến cá nhân của ông ta, chỉ muốn biết ông có tuân thủ Hiến Pháp và luật hiện hành không thôi”. Trong khi đó, trong các cuộc điều trần phê chuẩn thẩm phán TCPV trước đây, các nghị sĩ DC luôn luôn hỏi “Thế quan điểm cá nhân của ông/bà là gì?”.
Bà Elena Kagan là thẩm phán TCPV được TT Obama bổ nhiệm. Ra trước Thượng Viện năm 2010, bị thượng nghị sĩ DC Schumer hỏi “Bà sẽ xử như thế nào về chuyện... ? Bà nghĩ sao?”, bà đã trả lời ngay “Tôi không biết sẽ xử ra sao, tất cả tùy trường hợp, không quan tòa nào có thể nói trước sẽ xử ra sao. Tôi “nghĩ sao” không phải là vấn đề vì ý kiến cá nhân tôi không quan trọng”. Nói cách khác, khối DC lựa quan tòa theo ý kiến cá nhân trong khi khối CH tuyển người theo tiêu chuẩn có tuân theo Hiến Pháp hay không. (Trong vấn đề này, nhiều cụ tỵ nạn hiểu lõm bõm câu chuyện, phán rằng CH lựa quan tòa theo “ý tưởng cá nhân một chiều”. Cái này gọi là không biết mà cứ nói bừa vì tính phe đảng)


Ông Kavanaugh tốt nghiệp luật tại đại học Yale, làm việc tại một văn phòng luật tư. Rồi làm trợ tá cho thẩm phán Kennedy, người mà ông sẽ thay thế.
Trong cuộc điều tra của công tố độc lập Kenneth Starr về các xì-căng-đan Whitewater, sau đó Monica của TT Clinton, ông làm phụ tá cho ông Starr, là tác giả chính của phúc trình của công tố Starr nộp cho Hạ Viện, được dùng làm căn bản để đàn hặc TT Clinton. Yếu tố này bảo đảm sẽ kích động dân cuồng nhà Clinton.
Cuối năm 2000, ông tham gia vào nhóm luật sư của ông Bush con, tranh cãi vụ đếm phiếu bầu cử với PTT Gore. Sau khi ông Bush đắc cử, ông Kavanaugh vào làm luật sư trong Tòa Bạch Ốc. Tại đây ông gặp bà Trợ Tá Riêng của TT Bush để rồi sau đó lấy bà này làm vợ. Năm 2003, ông được TT Bush bổ nhiệm thẩm phán tòa phá án DC, nhưng gặp chống đối mạnh của khối DC trong Thượng Viện, mãi ba năm sau mới được phê chuẩn. Khi đó DC có 49 ghế tại Thượng Viện so với CH 51 ghế, nhưng luật thời đó đòi hỏi 60 phiếu mới được phê chuẩn.
Qua quá trình này, ông Kavanaugh có quan hệ rộng và mật thiết với giới luật sư và chính khách Hoa Thịnh Đốn nói chung, và với nhóm phụ tá của TT Bush nói riêng, nhất là với ông Karl Rove, được gọi là ‘kiến trúc sư’ đã xây dựng ‘căn nhà Bush’ trong chính trường Mỹ. TT Bush con và thống đốc Jeb Bush đều lên tiếng ca ngợi ngay quyết định bổ nhiệm ông Kavanaugh của TT Trump. Quan hệ này sẽ giúp hoá giải được phần nào những chống đối của khối CH chống Trump (#NeverTrump) trong Thượng Viện khi phê chuẩn ông Kavanaugh. Một số chính khách trong nhóm#NeverTrump ca ngợi ông Kavanaugh tuy vẫn làu bàu chống Trump. Nhưng ông cũng là thẩm phán sẽ gặp chống đối mạnh nhất của khối DC.
Phản ứng chung của khối bảo thủ là rất vui với việc bổ nhiệm ông Kavanaugh vì ông là bảo thủ thứ thiệt, kinh nghiệm cùng mình mà cũng là hạng trí thức nghiêm chỉnh, được lòng mọi người, không gây rối loạn. Đến độ có người chê ông Kavanaugh giống ông Jeb Bush, bị TT Trump phán là ‘low energy’. Nói cách khác, không giống… ông thần Trump, nên phe bảo thủ rất yên tâm. Trên căn bản, TT Trump đã giữ lời hứa khi tranh cử là sẽ bổ nhiệm thẩm phán bảo thủ khắp nơi, nhất là ở cấp TCPV.


Tin ông Kavanaugh được tuyển vừa là tin ngạc nhiên mà cũng là tin không đáng ngạc nhiên. Ngạc nhiên đầu tiên là ông này không có tên trong danh sách đầu các thẩm phán mà ông Trump đã lựa cho TCPV trong tương lai khi ông ra tranh cử tổng thống vì ông này quá thân cận với cánh Bush. Tên ông Kavanaugh chỉ được thêm vào danh sách cách đây một năm. Sau đó, trong cuộc tuyển lựa thẩm phán lần này, ông Kavanaugh ngay từ đầu là người có nhiều hy vọng nhất, nhưng rồi biến thành người ít hy vọng nhất để rồi cuối cùng là người trúng số. Số may mà cũng xui.
Số may vì vào làm thẩm phán TCPV chắc chắn là giấc mộng tối hậu của tất cả những người làm nghề luật. Số xui là bảo đảm sẽ bị phe DC và TTDC băm thây. Chẳng phải chỉ riêng gì ông Kavanaugh mà bất cứ ông bà nào được TT Trump bổ nhiệm cũng lãnh đủ, bất kể quá trình, khả năng, uy tín hay quan điểm về bất cứ chuyện gì, cũng sẽ bị chống đến cùng, gọi là nhắm mắt chống đối toàn diện, vô điều kiện.
Sau khi ông Kavanaugh được bổ nhiệm, nhóm Women’s March phổ biến một tài liệu đả kích tân thẩm phán thậm tệ. Nhưng có một ‘rắc rối nhỏ’. Tài liệu không ghi rõ tên ông Kavanaugh, mà những chỗ nào cần có tên thì chỉ để ‘xxx”. Nghiã là đây là tài liệu đã được viết sẵn, đề tạm tên là ‘xxx’, khi nào có tên người được đề cử sẽ điền vào. Nhưng vì hấp tấp phổ biến tài liệu, nên quên mất điền tên ông Kavanaugh vào.
Phe DC, dẫn đầu bởi TNS Schumer của New York, chưa chi đã la hoảng TP Kavanaugh sẽ tước đi quyền tự do phá thai của phụ nữ và sẽ giết Obamacare, tức là lấy đi bảo hiểm y tế của những người nghèo, bất kể việc thẩm phán Kavanaugh chưa bao giờ có án quyết nào liên quan đến chuyện phá thai hay Obamacare.
Phe DC chống đối viện dẫn một quyết định của ông Kavanaugh trong một vụ án, bác bỏ việc chính phủ Mỹ phải trả tiền phá thai cho một cô gái di dân lậu, nhưng hiển nhiên đây là bóp méo câu chuyện. Việc này liên quan đến trách nhiệm của chính phủ Mỹ phải trả tiền dịch vụ y tế cho một di dân lậu, không phải là chuyện cho hay không cho phá thai.
Thật ra, không ai biết chắc quan điểm của ông Kavanaugh về chuyện phá thai. Trong vụ cô di dân lậu trên, ông cũng nói đại khái là ‘phải lưu ý đến chính sách của chính phủ muốn bảo vệ sự sống của bào thai’, do đó không thể bắt chính phủ phải trả tiền phá thai, nhất là cho một di dân lậu, không phải dân Mỹ. Bù lại, trong cuộc điều trần trước Thượng Viện năm 2003, ông nói rõ “Roe v. Wade (là án quyết của TCPV nhìn nhận phá thai là hợp pháp trên cả nước) đã là luật quốc gia từ hơn 40 năm, không thể không tôn trọng”. Phe DC và TTDC chỉ nhấn mạnh vào chuyện cô di dân lậu mà phớt lờ câu nói trước Thượng Viện.
Về Obamacare, ông Kavanaugh là người đã ‘góp ý’ Chánh Án TCPV John Roberts để cứu Obamacare khiến nhiều ông bảo thủ bực mình. Phe DC và TTDC nín khe về chuyện này trong khi ông Schumer hù dọa ông Kavanaugh sẽ thu hồi Obamacare. Thu hồi hay không là việc của quốc hội, không phải của TCPV.
Ông Terry McAuliffe, cựu thống đốc Virginia và cựu chủ tịch Ủy Ban Quốc Gia của đảng DC, báo động “việc bổ nhiệm ông Kavanaugh sẽ đe dọa tính mạng của cả triệu người”. Không ai hiểu tại sao. Cứ theo đảng DC, dân số Mỹ trong hai chục năm nữa chắc sẽ ít hơn dân số Phú Quốc, sau khi cả triệu triệu người đã chết vì trái đất bị hâm nóng quá, vì thu hồi Obamacare đã giết hết bệnh nhân, vì trợ cấp và phiếu thực phẩm của tất cả dân nghèo đã bị cắt, và bây giờ vì tay sát thủ Kavanaugh.
Một nghị sĩ khác, ông da đen Cory Booker là người đang chuẩn bị ra tranh cử tổng thống năm 2020, khẳng định TT Trump bổ nhiệm ông Kavanaugh để “khỏi bị tù”. Theo ông Booker, công tố Mueller sắp sửa truy tố TT Trump không biết mấy vạn tội, và ông Kavanaugh sẽ cứu TT Trump. Đây là lập luận nổ lớn hơn kho đạn Biên Hòa, nhưng chẳng có ý nghĩa gì hết, chỉ là chuyện mỵ dân, lừa đám dân ít hiểu biết. Tổng thống không đi tù, chỉ bị đàn hặc và truất phế là cùng, mà trong tiến trình này, TCPV chẳng dính dáng gì hết. Chuyện ngớ ngẩn!
Thống đốc New York, Andrew Cuomo, đe dọa sẽ kiện TCPV. Hả? Kiện ở tòa nào? Tối Cao Pháp Viện? Vậy mà cũng làm tới thống đốc được.
Phe chống cũng tố TT Trump lựa ông Kavanaugh vì ông này chủ trương không truy tố tổng thống khi đang nhiệm chức, một quan điểm ‘lật lọng’ so với việc ông truy lùng TT Clinton. Ông Kavanaugh có truy lùng TT Clinton thật. Sau đó ông nghĩ lại thấy cuộc điều tra của công tố Starr hết sức tai hại cho cả nước và cho TT Clinton khiến ông gần như bị tê liệt không chu toàn trách nhiệm tổng thống được nữa. Rồi sau đó nữa, ông vào làm việc trong Tòa Bạch Ốc và ông nhìn nhận khi đó ông mới thấy tầm mức quan trọng của trách nhiệm của một tổng thống. Ông viết một bài tham luận dài, đặt vấn đề trước những tai hại lớn lao như vậy, có nên truy tố tổng thống khi ông còn đang làm tổng thống hay không. Dựa trên bài tham luận này, phe ta nhẩy nhổm tố ông sẽ tìm cách bảo vệ TT Trump và đó là lý do TT Trump đã lựa ông. Dù không ưa ông Kavanaugh cũng phải công nhận ông đã có đủ lương thiện và can đảm đặt lại vấn đề việc mình đã làm, thay vì ngoan cố cãi chầy cãi cối.
TTDC thì khỏi nói, đã trở thành cái loa của phe cấp tiến chống đối ngay từ đầu.
Cuộc chiến chỉ mới bắt đầu. Trong những ngày tới phe chống đối sẽ bận bù đầu, bận đi bới rác trong quá trình nghề nghiệp cũng như đời sống riêng tư của cả hai vợ chồng Kavanaugh. Cả bố mẹ, họ hàng tám đời, bạn bè từ ngày học mẫu giáo chung, cũng sẽ được chiếu cố luôn.
Các ông bà trong Thượng Viện sẽ hạch hỏi ông Kavanaugh tới tắc thở luôn, vặn vẹo đủ chuyện. Cuộc điều trần để phê chuẩn sẽ không phải là để tìm hiểu về khả năng của ông Kavanaugh, mà sẽ là phiên tòa của các ông bà nghị sĩ DC tìm mọi cách kết tội, bất kể ông Kavanaugh có hay không có tội gì.
Nói về bà thẩm phán TCPV Elena Kagan, ông Kavanaugh trong bài diễn văn ngắn cám ơn TT Trump, cũng đã khôn khéo cám ơn bà Kagan là người đã bổ nhiệm ông làm giáo sư dạy về Hiến Pháp tại Harvard khi bà Kagan còn làm viện trưởng tại đại học này. Một cách khều chân khéo những vị DC nào chê trách khả năng của ông. Chứng tỏ ông Kavanaugh này cũng khá cứng cựa, không dễ nuốt.
Biết rõ khó có thể cản trở việc phê chuẩn ông Kavanaugh, phó chủ tịch Ủy ban Quốc Gia của đảng DC, ông dân biểu Hồi giáo da đen Keith Ellison đưa ra một giải pháp rất hách: Hạ Viện nên chuẩn bị đàn hặc các thẩm phán TCPV. Đúng là phe ta lên cơn điên loạn hết rồi.
Việc TP Kavanaugh có được phê chuẩn hay không chưa ai biết được, nhưng trong lịch sử, trong gần 110 thẩm phán TCPV, chỉ có đâu 5-6 người bị bác. Các tổng thống trước khi chính thức bổ nhiệm thường tìm hiểu, vận động trước và điếm phiếu Thượng Viện khá kỹ. CH hiện nay có 51 phiếu, nhưng ông McCain sẽ không tham dự được, còn 50. Trong đó có hai bà Collins (Maine)và Murkowsky (Alaska) lừng chừng. Phe DC có 49 phiếu trong đó có 5 ông bà có thể bỏ phiếu theo CH vì phải ra tranh cử lại tại những tiểu bang CH nặng như Georgia, West Virginia, North Dakota, Indiana, và Missouri. Bẩy người này sẽ có tiếng nói quyết định. Chống ông Kavanaugh sẽ rất khó cho các nghị sĩ DC tái đắc cử trong những tiểu bang đã bầu mạnh cho TT Trump.
Trong 5 ông bà DC trên, đã có 3 vị trước đây đã bỏ phiếu cho ông Neil Gorsuch. Để xem họ biểu quyết ra sao.
TT Trump chẳng những đã khiêng cả cái TCPV về phiá bảo thủ mà ông cũng đã và đang bổ nhiệm cả trăm thẩm phán bảo thủ khác vào hệ thống tư pháp Mỹ trong các cấp liên bang và phá án. Tất cả đều là những thẩm phán không có nhiệm kỳ, ngồi ghế cho đến chết hay già khụm. Cái gia tài tư pháp này của TT Trump sẽ tồn tại vĩnh viễn mà không có tổng thống mới nào có thể xóa dễ dàng như gia tài của TT Obama đang bị TT Trump xóa. Đó là một trong những lý do khiến phe cấp tiến đang phát khùng với ông thần Trump, đánh ông Kavanaugh tối tăm mặt mũi. Nhưng xin thưa với quý vị, chưa thấm vào đâu hết. Hãy chờ tới khi TT Trump bổ nhiệm thẩm phán TCPV thứ ba và thứ tư xem.
Với sự bổ nhiệm ông Kavanaugh, việc TT Obama bổ nhiệm hai bà cấp tiến nặng Elena Kagan và Sonia Sotomayor coi như bị hoá giải hoàn toàn.
Nếu muốn nói lỗi phải, thì đó đúng là lỗi của đảng DC đã lựa chọn bà Hillary làm đại diện ra tranh cử tổng thống, một chính khách vừa quá nhiều ‘hành trang không đẹp’ lại cũng là một ứng cử viên thật dở trong ‘nghệ thuật’ vận động tranh cử, đưa đến sự đắc cử của ông Trump. Đi xa hơn, đó cũng vẫn là lỗi của DC khi Thượng Viện sửa đổi thủ tục phê chuẩn nhân sự. Còn muốn đi xa hơn nữa thì phải nhìn vào tác phẩm của TT Obama đã đánh mất hậu thuẫn của cả chục triệu dân trung lưu và dân lao động.
Càng viết, càng nhớ lại ‘câu sấm’ của Đấng Tiên Tri Obama: “Elections have consequences”! Đúng vậy, thưa tổng thống.

Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2018

20-7 xét xử ông William Anh Nguyen

TTO - TAND TP.HCM đã có quyết định đưa ra xét xử vụ án "gây rối trật tự công cộng" đối với ông Nguyen William Anh (còn có tên gọi khác là Will Nguyen, Nguyen Anh William; William Nguyen, 35 tuổi, thường trú tại thành phố Houston, bang Texax, Hoa Kỳ).

Theo cáo trạng của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyen William Anh là người gốc Việt có quốc tịch Hoa Kỳ, sinh ra tại thành phố Houston.
Từ năm 2016, ông Nguyen William Anh học thạc sỹ tại trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Singapore.
Từ Singapore về Việt Nam để biểu tình
Cáo trạng cho biết: từ Singapore, ông Nguyen William Anh thường xuyên theo dõi tin tức đăng tải trên mạng xã hội liên quan đến Việt Nam nên biết thông tin có kêu gọi biểu tình phản đối dự luật Đặc khu và luật An ninh mạng của Việt Nam vào ngày 10-6-2018 tại Công viên Hoàng Văn Thụ quận Tân Bình (TP.HCM) nên  quyết định về Việt Nam để tham gia biểu tình phản đối. 
Trước khi về Việt Nam, ông Nguyen đã nhắn tin trên mạng facebook trao đổi với một số người về tình hình  và cách thức tham gia biểu tình tại Việt Nam. 
Khi trao đổi, ông Nguyen William Anh bày tỏ ý định của mình khi tham gia biểu tình thì không mang theo giấy tờ tùy thân và "sẽ đánh trả lại và bỏ trốn" khi cảnh sát giải tán biểu tình.
Cũng theo cáo trạng, ngày 9-6, ông Nguyen William Anh nhập cảnh vào Việt Nam và thuê trọ tại đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3. Khoảng 9g ngày 10-6, ông Nguyen William Anh đi uống cà phê tại quận 1 và đọc tin qua điện thoại thì biết cuộc biểu tình trái phép đang diễn ra tại khu vực công viên Hoàng Văn Thụ. 
Ông Nguyen William đón xe đến khu vực này và hòa vào đám đông tràn xuống lòng đường để tiến vào trung tâm thành phố.
Tại đây, ông Nguyen William lấy điện thoại quay chụp hình và đưa thông tin về cuộc biểu tình trên facebook cá nhân và mạng Twitter. 
Trên đường đi, bị lực lượng công vụ chặn lại, ông Nguyen William Anh tiến lên đầu yêu cầu lực lượng công vụ tránh đường cho đoàn biểu tình nhưng không được chấp nhận. 
Ông Nguyen William Anh liền kêu gọi mọi người xô đẩy và phá hàng rào cảnh sát trên đường Nguyễn Văn Trỗi để tiếp tục tiến về đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa.
Đến 13 giờ cùng ngày, khi đoàn biểu tình đến ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Lý Chính Thắng thì có 4 xe ô tô của cảnh sát chặn ngang đường. Một số người biểu tình ném chai nước vào lực lượng cảnh sát. 
Ông Nguyen William Anh tiếp tục yêu cầu cảnh sát rời xe cho đoàn biểu tình đi qua nhưng không được chấp thuận. Ông này liền trèo lên xe bán tải kêu gọi mọi người trèo qua các xe để đi lên tiếp tục tiến về trung tâm thành phố. 
Lúc này, trong đoàn biểu tình đang có người dùng tay rung lắc để lật đổ xe bán tải của cảnh sát, ông Nguyen William Anh cũng tham gia để lật xe nhưng không lật được. Sau đó, ông Nguyen William Anh tiếp tục rời các xe gắn máy  dựng chắn trên lề đường để lấy đường cho người biểu tình đi qua và kêu gọi mọi người cùng làm với mình và đoàn người tiếp tục tiến về thành phố.
Sau đó, ông Nguyen William Anh bị cơ quan chức năng đưa về trụ sở làm việc.
Chưa tìm hiểu về dự thảo luật Đặc khu và dự thảo luật An ninh mạng
Cáo trạng nêu: tại cơ quan điều tra, ông Nguyen William Anh biết rõ việc tham gia biểu tình ở VN là trái phép, ông cũng chưa nghiên cứu về luật Đặc khu hay luật An ninh mạng nhưng vẫn về Việt Nam để tham gia biểu tình phản đối. 
Khi tham gia biểu tình phản đối, ông Nguyen William Anh cũng biết rõ hành vi bạo động là vi phạm pháp luật nhưng vẫn dẫn đầu, kêu gọi mọi người có hành vi bạo động chống lại lực lượng điều hành giao thông và giữ gìn trật tự. 
Hành vi của ông Nguyen William Anh đã gây cản trở, ách tắc giao thông nghiêm trọng trong nhiều giờ liền từ sân bay Tân Sơn Nhất vào trung tâm thành phố, đồng thời ảnh hưởng đến hoạt động bình thường trên các tuyến đường giao thông ở Việt Nam.
Theo thống kê của Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất thì việc tụ tập đông người trái phép đã làm ách tắc giao thông nghiêm trọng từ 8g đến 14g ngày 10-6 dẫn đến 4 tuyến xe buýt ngưng hoạt động và 13 khách trễ chuyến bay.
VKSND TP.HCM cho rằng hành vi của ông Nguyen William Anh đã xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội nên phải xử lý nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục và răn đe, phòng ngừa chung đối với xã hội.
Do đó, VKSND TP.HCM đã truy tố ông Nguyen William Anh tội gây rối trật tự công cộng theo khoản 2 điều 318 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
Theo quy định của điều luật này, ông Nguyen William Anh phải đối diện với mức hình phạt lên tới 7 năm tù. Tuy nhiên, VKSND TP.HCM cũng cho rằng ông Nguyen William Anh được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s, khoản 1, điều 51 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung 2017).
Dự kiến phiên tòa xét xử ông Nguyen William Anh sẽ được TAND TP.HCM đưa ra xét xử vào ngày 20-7 do ông Phạm Lương Toản, Chánh tòa Hình sự TAND TP.HCM làm chủ tọa.
HÀ CHÂU (TTO)

LY TONG - IN COURT OF APPEAL OF THE STATE OF CALIFORNIA SIXTH APPELLATE DISTRICT PEOPLE OF THE STATE OF CALIFORNIA

IN COURT OF APPEAL OF THE STATE OF CALIFORNIA SIXTH APPELLATE DISTRICT

PEOPLE OF THE STATE OF CALIFORNIA,
Plaintiff and Respondent,
vs.
No. H038490 Santa Clara County Superior Court No. Cl082954
LY TONG, Defendant and Appellant.
Appeal From The Judgment of the Superior Court State of California, County of Santa Clara The Hon. Andrea Bryan, Judge APPELLANT’S OPENING BRIEF
Alfons G. Wagner State Bar No. 063105 14 Monarch Bay Plaza, #355 Monarch Beach, CA 92629 (949)218-5862 Attorney for Appellant
Sixth District Appellate Program Independent Case

TABLE OF AUTHORITIES………………………………………………………….. iii APPELLANT’S OPENING BRIEF…………………………………………………… 1
STATEMENT OF APPELLATE JURISDICTION…………………………………. 1
STATEMENT OF THE CASE………………………………………………………… 1
STATEMENT OF THE FACTS………………………………………………………. 4
ARGUMENT
I
THE COURT COMMITTED REVERSIBLE ERROR IN DENYING APPELLANT’S Batson-Wheeler MOTION…………………………….. 24
Introduction…………………………………………………………………… 24
a.                                                                                                                                                   Factual and Procedural Background…………………………………….. 24
b.                                                                                                                                                   Batson-Wheeler Procedure and Standards……………………………… 27
c.                                                                                                                                                   The Totality of the Relevant Facts Demonstrates That the Court’s Determination There Was No Inference of Discriminatory Purpose Was Clearly Erroneous and Reversal Is Required……………………. 28
1.           The Attitude of the Local Vietnamese Community and
Its Probable Impact on Jury Selection………………………………….. 28
2.           The Prosecutor’s Proffered Reasons Were Either Not Supported By The Record Or Were Not Evidence Of
Racial Neutrality…………………………………………………………….. 29
Conclusion……………………………………………………………………… 30

II
THE TRIAL COURT COMMITTED REVERSIBLE ERROR BY DENYING APPELLANT’S MOTION FOR ACQUITTAL UNDER SECTION 1118.1 ON THE VIOLATION OF SECTION 375 ALLEGED IN COUNT FOUR BECAUSE COUNT FOUR WAS A GENERAL STATUTE AND PROSECUTION ON THE VIOLATION OF SECTION 12403.7 ALLEGED IN COUNT TWO WAS PROSECUTION UNDER A SPECIAL STATUTE THAT PRECLUDED PROSECUTION UNDER
SECTION 375………………………………………………………………… 31 Background…………………………………………………………………… 31
a.                                                                                                                                                  Applicable Statutes………………………………………………………….. 31
b.                                                                                                                                                  Applicable Case Authority………………………………………………… 33
c.                                                                                                                                                   Conclusion……………………………………………………………………. 37
CONCLUSION………………………………………………………………………… 38

CASES Batson V. Kentucky (1986) 476 U.S. 79 …………………………………… 24,. 27, 29
Cook V. Superior Court (1970 4 Calo.App.3d 822…………………………………. 33
In re Williamson (1954) 43 Cal.2d 651…………………………………………….. 34
Johnson V. California (2005) 545 U.S. 162 …………………………………. 27, 29
People V. Cornwell (2005) 37 Cal.4th 50…………………………………………… 27
People V. DeLaCruz (1993) 20 Cal.App.4IH 955…………………………….. passim
People V. Long (2010) 189 Cal.Ap.4lh 826……………………………………. 27, 30
People V. Murphy (2011) 52 Cal.4th 81, 86…………………………………………. 34
People V. Silva (2001) 25 Cal.4th 345……………………………………………….. 27
People V. Snyder V. Louisiana 552 U.S. 472…………………………………….. 30
People V. Wheeler (1978) 22 Cal.3d 258………………………………………. 24, 27
STATUTES Evidence Code Sections
402…………………………………………………………………………………………. 2
Penal Code Sections
148, subdivision (a)(1)……………………………………………………………… 2,   3
241, subdivision (a)……………………………………………………………………… 2
245, subdivision (a)(1)………………………………………………………………….. 1
375……………………………………………………………………………… 2,34,35,37
375, subdivision (a)…………………………………………………………………. 3, 31
375, subdivision (d)……………………………………………………………. 3,. 31, 36
459-460, subdivision (d)………………………………………………………………… 3
667…………………………………………………………………………………………. 1
1192.7                                                                                                                                                      1
1237, subdivision (a)……………………………………………………………………. 1

1368……………………………………………………………………………………….. 2 12403.7                                                                                                                                31, 35, 37
12403.7,                                                                                                                                             subdivision (g)………………………………………………………………………. 2, 34
12403.7,                                                                                                                                                    subdivision (g)( 1)……………………………………………………………………… 31
12422……………………………………………………………………………………… 2
22810…………………………………………………………………………………….. 31

IN THE COURT OF APPEAL OF THE STATE OF CALIFORNIA SIXTH APPELLATE DISTRICT
PEOPLE OF THE STATE OF CALIFORNIA,
Plaintiff and Respondent,
vs.
No. H038490 Santa Clara County Superior Court No. C01082954
LY TONG, Defendant and Appellant.
APPELLANT’S OPENING BRIEF STATEMENT OF APPELLATE JURISDICTION This is an appeal from a final judgment of conviction after a jury trial. It disposes of all issues between the parties, and is authorized by Section 1237, subdivision (a).1
STATEMENT OF THE CASE An information filed on October 21, 2010, alleged appellant had committed the following crimes, all on July 18, 2010:
Count 1: Assault with a deadly weapon (§ 245, subd. (a)(1)), to wit; tear gas pepper spray; including an allegation he personally used a dangerous and deadly weapon within the meaning of Sections 667 and 1192.7;
1 All statutory section references are to the Penal Code unless otherwise stated.

Count 2: Unauthorized use of tear gas (§ 124Ơ3, subd. (g)); Count 3: Altering ID on tear gas weapon (§ 12422) ;
Count 4: Use of tear gas in public (§ 375, subd. (a)(d));
Count 5: Second degree burglary (§§ 459-460, subd. (d)), and; Count 6: resisting, delaying, obstructing an officer, a misdemeanor (§ 148, subd. (a)(1)). (1CT 62-65),
Appellant’s jury trial began on May 8, 2012 with hearings under Section 402 of the Evidence Code and in limine motions. (1CT 275, 3RT 22) The jury, including alternates, was sworn on May 9, 2012. (1CT 279) The prosecution made its opening statement on May 10, 2012, and began the presentation of evidence. (1CT, 4RT 97) The defense made its opening statement on May 16, 2012 and began presentation of the defense case.
(1C r 285)
On May 23, 2012, appellant’s trial counsel declared a doubt as to appellant’s mental competency under section 1368. (2CT 349, 11 RT812) The court denied appellant’s request for an ex-parte in camera conference regarding this issue. (2CT 349, 11RT814) Final arguments were presented on May 23, 2012. (2CT 349, 11 RT 817, 856, 885)
On May 24. 2012, the jury delivered the following verdicts:
Count 1: Guilty of simple assault (§241, subdivision (a)), a misdemeanor, as a lesser included offense of assault with a deadly weapon (§ 245, subd, (a)(1));
Count 2: Guilty of Unauthorized use of tear eas (§ 12403, subd.
(g));
2 Count 3 was dismissed on May 16, 2012, on motion of the prosecutor. (1 CT 285; 7RT 422)

Count 4: Guilty of Use of tear gas in public (§ 375, subd. (a)(d)); Count 5: Guilty of Second degree burglary (§§ 459-460, subd. (d)), and;
Count 6: Guilty of resisting, delaying, obstructing an officer, a misdemeanor (§ 148, subd. (a)(1)). (1CT 62-65). (2CT 350-355, 358, 359; 12 RT 951-957)
On June 22, 2012, the court granted probation for a period of three years. (2CT 405) Included in the conditions of probation were that appellant serve six months in county jail and receive psychological counseling. (2CT405, 13RT 967, 971-975)
Notice of appeal was timely filed on June 27, 2012. (2CT 407)

STATEMENT OF THE FACTS PROSECUTION CASE Sgt. Brian Gilbert of the Santa Clara Police Department, the prosecution’s investigating officer, was in charge of the intelligence unit and involved in coordinating the police response to special events (6RT 358, 362). He was informed by the management of the Santa Clara Convention Center on July 13, 2010, that a concert had been scheduled for July 18,2010. (6RT 362) The entertainers at the concert were from Vietnam. (6RT 363) Gilbert was aware that there had been protests at prior events involving Vietnamese activist groups, either pro- or anti- Vietnam. (6RT 364) He knew there was a group of anti-communist activists in the South Bay who responded to events they considered pro­communist. (6RT 364) There was usually a large demonstration with a high level of potential for violence. (6RT 364)
Gilbert met with a Group of people from the convention center, including the promoter for the event, Huy Le. (6R.T 364) Le informed Gilbert there was going to be a protest and Gilbert was concerned there would be an attempt to disrupt the event. (RT 365) Le had no plan for security other than Santa Clara Police Officers. (6RT 365) Gilbert also met with organizers of the protest. (6RT 366)
Gilbert aưived at the Convention Center about four p.m.; about two hours before the concert was to begin. (7RT 386) He first came into contact with over a hundred loud, but peaceful, protesters outside the front entrance and the area surrounding the Convention Center. (7RT 386, 388) Once the concert began, Gilbert remained inside the theater itself most of the time. (7RT 389) Just after eight p.m., Gilbert heard screaming coming from the crowd. (7RT 390) Gilbert saw a person he had met

earlier in the day, Mr. Dickerson3, move up and grab what appeared to be a female at the front of the stase. (7RT 390) The headline performer was retreating away from the female and it appeared he had been assaulted in some way, because he was grabbing his face. (7RT 391) Gilbert ran out the control booth from where he had made his observations and ran toward Dickerson. (7RT 392) Dickerson had the person dressed as a female in a bear hug and was running up the walkway from the front of the Stage to the back of the stage. (7RT 392) As Gilbert came up to Dickerson he could see Dickerson was holding a Vietnamese male who was dressed in woman’s clothing. (7RT 393) Gilbert identified appellant as the Vietnamese male. (7RT 393) Dickerson had appellant’s arms wrapped in the bear hug but appellant’s hands were free so Gilbert grabbed appellant’s left hand and left arm. (7RT 393) As Gilbert and Dickerson were moving appellant out of the theater, they were joined by Sgt. Hosman. (7RT 394) Gilbert told appellant they were police5 and to put his hands behind his back. (7RT 395) Appellant did not comply. (7RT 395) Gilbert was still on appellant’s left side and Hosman was on appellant’s right side. (7RT 395) The two officers attempted to take control of appellant by attempting to put his hands behind his back for hand-cuffing. (7RT 394-395)
Appellant physically resisted Gilbert by tensing up and not letting him bend appellant’s hand behind his back, (7RT 396) Hosman was trying
3 Dickerson had introduced himself as doing some type of executive protection security for one of the attendees. (7RT 415, 4RT 183)
4 A wig, synthetic ilower, two underwear garments, a necklace, tan-colored panty hose and a pair of woman’s shoes taken from appellant were booked into evidence. (6RT 330-338)
5 Hosman was in uniform but Gilbert was not. (7RT 395) 5

to get appellant’s right arm behind his back. (7RT 396) Gilbert pushed appellant into an adjacent wall to prevent him from twisting. (7RT 396) Appellant had been verbally advised not to resist throughout. (7RT 398) According to Gilbert, appellant received a small laceration above his left eyebrow less than an inch long that produced a small amount of blood. (7RT 399) The wound was apparently caused by a metal seam in the wall against which appellant was pushed. (7RT 428-431) Appellant received treatment for the laceration from Santa Clara Fire. (7RT 399)
Over objection, Gilbert was also qualified as a pepper spray expert based on his experience with it and its effects. (7RT 380, 417-421) Direct exposure to pepper spray would close a victim’s eyes immediately because of the irritant. (7RT 380) His or her eyes would also run. (7RT 380) If inhaled there would be choking, a tightness in the chest and difficulty breathing;. (7RT 381) Santa Clara policc carried 10% pepper spray but Gilbert was aware of pepper spray available to the public from 6% to 17. (7RT384)
The fire department had been called because Gilbert could smell the distinct odor of pepper spray. (7RT 400) Gilbert knew that the pepper spray would cycle through the theater’s ventilation system and the audience would experience the effects of the pepper spray. (7RT 403-403) He observed fire department personnel examine a few of the concert attendees and later bring in very large industrial-strength fans to ventilate the theater. (7RT 404) He also observed some but not all of the audience displaying symptoms of having been pepper sprayed leaving the theater during intermission. (7RT 437, 449) Some were coughing and holding their hands over their mouths. (7RT 437)

Gilbert observed the performer who had been sprayed had blood shot eyes, tearing up, a runny nose, was coughing and had redness to his face and upper chest area. (7RT401) What Gilbert observed was consistent with the use of pepper spray. (7RT 401, 408) Sgt. Gary Housman, a patrol supervisor, observed who he thought was a female spray something in the face of the male performer. (4RT 149) The female had first offered the performer some flowers she was carrying. (4RT 158) His version of appellant’s arrest and how he received is injury was essentially the same as Sgt. Gilbert’s. (4RT 160-166, 200)
Hosman saw concertgoers coming out of the theater with articles of clothing up to their faces. (4RT 167) They were also coughing, sneezing and rubbing their eyes. (4RT 167, 199)
Hosman discovered two canisters of pepper spray on appellant’s person. (Peo’s Exs.8 & 9, 4RT 170-178)
Phan All6 and her uncle arrived at the concert about six p.m. (5RT 213-214) Their seats were seven to 10 rows from the side of the theater and they could clearly see the stage. (7RT215) about halfway through a sons Au saw a female dressed in black who was carrying a flower and wearing a hat came near the stage. (5RT 215) Auh saw the person spray Dam Vinh Hung with something that he couldn’t sing any longer. (2RT 217) She was recording the person on her I-phone video as he approached the stage. (5RT 218) She kept recording until the person was arrested. (5RT 220) She later realized the person who had sprayed was a man and not a woman. (5RT 223)
The video from her I-phone (Peo.’s Ex. 10) was played for the jury. (5RT 223) According, to Pau, the performer said that the person sprayed

something in his eyes and made them uncomfortable so he asked to be excused for some minutes so he could sing again. (5RT 223) All stayed in her seat until the show was ended. (5RT 218) A smell made her sneeze and have tears for five to ten minutes. (5RT 218-219)
Her uncle also coughed for several minutes. (5RT 335) People around her sneezed and had to go out of the theater to breath. (5RT 220, 226) She estimated about half the crowd left the building because of the pepper spray. (5RT 232)
Shortly after the spraying, someone on stage announced they would be taking a short intermission and told the crowd they should go outside for a few minutes. (5RT 232) The entertainers came back out on the stage about 10 to 15 minutes later and continued to sing for 45 minutes. (5RT 226, 236)
Au denied being asked by a defense investigator whether she was affected by the spray and did not remember if she told that investigator that she was not affected by the spray when she was inside. (5RT 231)
Ss,t. Kiet Nguyen of the Santa Clara Police Department was one of the officers assigned to security for the concert. (5RT 102) The security detail was to keep peace between the protesters and the people attending the concert. (5RT 103) At their peak, there were 50 or more chanting protesters with banners and flags. (5RT 104)
Nguyen was assigned to interview appellant after his arrest. (5RT 105) Officer Lutz was watching over the person in custody when Nguyen interviewed appellant (5RT 106-107) Nguyen identified appellant as the person he interviewed. (5RT 106) Appellant was wearing female clothine including a net over his head that one would wear under a wig. (5RT 206)
6 Au testified with the assistance of an interpreter. (5RT 213) 8

The interview beean at about 8:40 p.m. (5RT 120) They spoke in English but appellant’s statement was only recorded in the police report because Nguyen had no audio device. (5RT 107) Appellant told Nguyen he was famous freedom fighter. (5RT 107) He had sprayed pepper spray at the performer because the performer was a communist and there to harm appellant’s community. (5RT 107)
Appellant was merely acting in self-defense to protect his community.
(5RT 107) He was dressed the way he was because he was famous and he would have been denied entrance at the door because he would have been recognized. (5RT 108) He paid cash for the ticket at the front door. (5RT 108)
Appellant was non-remorseful and appeared to be proud of what had happened. (5RT 118) Nguyen observed a small bump on appellant’s head. (5RT 119)
The performer appellant sprayed was Dam Vin Hung. (5RT 108-
109)      Appellant brought flowers as a gift for the performer. (5RT 109) When the Hung approached him to get the flowers, appellant sprayed pepper spray at him. (5RT 109) Appellant made no mention of receiving any physical threats from Hung. (5RT 109)
Appellant did a week of planning and took two pepper spray canisters because if one malfunctioned, he would have a back-up. (5RT 110)
Right after speaking to appellant, at about 9:15 p.m., Nguyen went backstage and spoke to Hung. (5RT 110) Hung’s skin, face, chest and arms were red. (5RT 111) He was also having difficulty breathing. (5RT 111)

Nguyen had been exposed to pepper spray before and his reaction was very similar to Hung’s. (5RT 116) Nguyen’s police report reflected he had seen 250 to 300 protesters but that figure was given to him by somebody else. (5RT 117)
The parties stipulated to the foundation for a video of an interview appellant gave to Little Saigon TV and it was played for the jury. (5RT 243) The video was in Vietnamese but it was translated into English in short segments for the jury as it was played. (5RT 244) The jury was also provided with English transcripts of the video.7 (5RT 245)
In the interview, appellant explained that he was on a mission to fight against communism. (5RT 248) Me thought of pepper spray because it was legal. (5RT 249) He disguised himself as a woman because everybody in the community would recognize his face. (5RT 249-250) He carried two fake lotus flowers to give to the performer. (5RT 254) Appellant approached the stage closely as he was waiving the flowers.
(5RT 254) When the Communist performer Van Ding Huns approached appellant to take the flowers, appellant shot Hung one time in the face with pepper spray. (5RT 248, 256, 262) He had practiced with the pepper spray. (5RT 257) He was grabbed by three or four security guards and then by the police. (5RT 258-259) The police pushed him into a wall splitting his head open, (5RT 260) He lost half a liter of blood. (5RT 260) Tien Van Hinh, who also attended the concert, testified with the assistance of an interpreter. (5RT 123) He did not purchase a ticket because his friend Phuc had invited him. (5RT 123, 139) He arrived right
7 A copy of the transcript was obtained by Rule 8.340 letter and filed on October 29, 2012. It was not given an exhibit number. 10

at the beginning of the concert. (5RT 123) He was seated near the front right in the center and there were no scats in front of him. (5RT 124) At some point in the concert Hinh saw a woman walk up to the stage with flowers and all of a sudden he heard the singer scream. (5RT 124) Dam Vinh Hung and My Tam were the performers on the state. (5RT 125) Hinh ran up and tried to intervene but now didn’t recall what he was intervening. (5RT 126, 131) He did not remember telling police appellant sprayed pepper spray in the performer’s eyes. (95RT 131)
Hinh felt a bit of his face and his chest were warming up. (5RT 132) He went into the rest room and splashed water on his face and eyes for about five minutes but did nothing else. (5RT 133, 135) The concert stopped for about half an hour and then restarted. (5RT 143)
Mellisa Hengood, a criminalist with the Santa Clara County Crime lab analyzed the contents of the two pepper spray canisters found in appellant’s possession (Peo. Exs. 8 & 9) and found both contained pepper spray. (6RT 288-289, 302) Because she was not asked to, she performed only a qualitative analysis and did not determine how much, if any, of the contents of the canisters had been expended. (6RT 296, 306, 7RT 405)
She was also not asked to and did not examine the spouts of the canisters to see if there was an pepper spray residue. (6RT 309) She as also not asked to and did not attempt to extract and pepper spray residue from clothing although she could have if asked. (6RT 312-313, 7RT405-406)
8 Officer Tyson Green of the Santa Clara Police Department later testified Hinh told him that he sustained a prolonged irritation of his eyes from

DEFENSE CASE Minh Nhut Huynh at the concert as a photographer for V Times, a Vietnamese publication. (7RT 470, 8RT 488) He used a digital camera that recorded the date and time a photograph was recorded. (7RT 471,
8RT 489)9 Huynh took a number of photos at the concert including one taken right after the actual spraying incident and one of an audience that did not appear to be physically affected by the substance that was sprayed. (Defense Exs. E, H, 7RT 503-505, 491-522)
Huynn admitted he had provided appellant with a CD of photos of the incident and told appellant he was a fan of appellant’s. (7RT 528, 540) Hunyn had taken all the photos accepted into evidence but appellant had developed some of them. (7RT 539)
Nguyen Xuan Vinh, who moved to the United States in 1962, first met appellant 34 years ago in 1988 at a Vietnam remembrance day in Louisiana. (8RT 551-554, 556) Vinh lived in San Jose from 1999 until 2010. (8RT 555) Prior to July 18, 2010, Vinh believed appellant was a peaceful and good man. (8RT 557) Appellant went to school in this country and got an education he used to progress himself. (8RT 558)
Vinh believed appellant was a peaceful man because he had never heard appellant did anything to harm anyone. (RT 558)
being pepper sprayed that lasted an hour after the concert ended. He also told Green his face and chest where also irritated. (5RT 274) 9 Hunyh’s testimony was interrupted after it was discovered he had been in the court room at some point during the presentation of evidence. (7RT 472-4731) The court granted the prosecution’s motion to bar his testimony. (7RT 474-476) 1 lowever, the next day, the prosecution and appellant stipulated Hunyh could testify. (7RT 486) The court chose to add a factor regarding this incident to the general credibility instruction. (2CT 311)
12

Appellant had a good reputation in the community prior to July 18, 2010; people loved him. (8RT 555) He was also an honest man; Vinh had never heard he had done anything wrong. (8RT 559) Vinh moved to Orange County in 2010 and did not have any face-to-face contact with appellant until asked to testify at this trial. (8RT 562, 564) He did write to appellant a few times between 1988 and 2010 and one of the letters was published in appellant’s book. (8RT 562, 563) Vinh did have a lot of contact with appellant between 2006 and 2010. (8RT 563) They saw each other once or twice a month at community meetings. (8RT 563-564) Vinh considered appellant a 20od friend but not a close friend. (8RT 563) Neither had been to the other’s home. (8RT 565) He did not receive a subpoena and came on his own. (8RT 566)
Vinh knew what appellant had been charged with but it did not change his opinion of appellant. (8RT 569-570)
Canh Van Nguyen had lived in Palo Alto from 1975 to 1977 until he moved to his current home in Redwood City. (8RT 562) Before 1975 Nguyen lived in Vietnam. (8RT 572) When Nguyen came to the United States in 1975, he was very, very, active in a community of other refugees from Vietnam. (8RT 572) He was still active in that community. (8RT 572) He felt he had a duty to help the people from Vietnam and was a direction of the so-called Indochina Training and Development Center in San Jose from 1980 to 1991. (8RT 573) Between 2007 and July 18, 2010, Nguyen and appellant met many times in different meetings and had personal conversations. (8RT 574) Nguyen also knew of appellant’s reputation prior to 2007 from some of his former students from Saigon or

members of the armed forces. (8RT 574) Nguyen had taught at the National Defense College and the Command and General Staff. (8RT 574) Many of the community in San Jose and Santa Clara County were the same people who formed the community in Saigon Nguyen was a member of. (8RT 574) Nguyen considered appellant to be a good and very honest person. (8RT 575-576) Appellant had a reputation in the community lor being honest. (8RT 576) lie was a leader in the community, a nonviolent person and the community loved him. (8RT 577) This opinion was based at least in part on appellant’s activity in peaceful protests. (8RT 584) His hunger strike supporting the designation of Little Saigon was an example. (8RT 584-586)
Nauyen had known appellant for about five years. (8RT 586) They had met often at community meetings but had never met outside those meetings. (8RT 586) Nguyen did consider appellant a friend, however. (8RT 587) They sat together and talked at most community meetings.
(8RT 587-588) Nguyen had attended maybe 10 of appellant’s rallies.
(8RT 589) Some of these rallies included speaking at the association of former police officers from Vietnam. (8RT 594-595) The officers rcspected him. (8RT 595)
Nguyen had never talked to appellant about this case nor had seen anything about it in the media. (5RT 589) He had heard some people in the community saying something about the singer from Vietnam in the concert. (5RT 592) That appellant had been charged with assault did not change Nguyen’s opinion that he was a peaceful man. (5RT 592-593, 596 Bin Khac Nguyen, testifying through an interpreter, had lived in San Jose around 15 years, in Milpitas for around 14 years and also in San Mateo

for around 14 years. (8RT 599) Nguyen came to the United States in 1975. (8RT 599) Nguyen had been a two star general in the Vietnamese Central Intelligence Agency. (8RT 600) He didn’t know appellant in Vietnam but had heard about him. (8RT 600) Appellant was one of those who helped Nguyen slow the advance of the communists in Vietnam. (8RT 601) Nguyen first met appellant when appellant moved to San Jose. (8RT
602)      Nguyen was a senior member of the association of the Vietnamese military and always greeted people who came to the meetings of the organization. (8RT 602)
Appellant was well known in the community from 1975 to 2000. (8RT 603-604) Appellant was the image of a “courage” fighter pilot. (8RT
603)      He socialized widely with the community and with the veterans.
(8RT 603) Fie was a nice person. (8RT 603) The hunger strike appellant did regarding Little Saigon proved he preferred a peaceful to a violent protest. (8RT 603)
Nguyen had tried to act as a bridge between the community and the elected officials. (8RT 605) Appellant was obsessed with the ideal and tried to protect freedom and democracy. (8RT 605, 608-609)
Nguyen considered appellant a mate or a solider but not a friend. (8RT 606) They rarely contacted outside of meetings. (8RT 609)
Candance Vance’s boyfriend was arrested in her presence by Sgt. Hosman in 2009. (9RT 617) She contacted the Santa Clara Police department and reported Hosman had made false statements in the policc report regarding the arrest. (9RT 617, 622) She did not know appellant or anything about the subject of the trial. (9RT 627)

APPELLANT Appellant had lived in the United States since 1983 and in San Jose since 2007. (9RT 668)
He remembered buying a ticket and attending the concert at the Santa Clara Convention Center on July 18, 2010. (9RT 668) He arrived sometime before five. (9RT 669) There were only a few protestors there at that time. (9RT 669) They were there because the singer was a spearhead of Communist Cultural Attacks and a famous Communist. (9RT 669)
Appellant mostly took part in the protests as an individual and not an organizer. (9RT 669) Appellant took part in the protests against the communists because they killed a million Vietnamese people and sold Vietnam to Red China. (9RT 669) A million people had escaped but half of them died in the sea. (9RT 669) Appellant himself had been a communist prisoner for 21 years. (9RT 669) If we didn’t protest “them”, they will come here, take over the community and do harm to America and Americans. (9RT 669)
Appellant wore woman’s dress to the concert. (9RT 670) That included a skirt, coat, vest, a hat, necklace, high heels and a wig. ((9RT 670) He wore this clothing to keep from being recognized. (9RT 670) Essentially everybody knew him including the concert organizers. (9RT
670)
His intent in going to the concert was to make a warning. (9RT 671) First, they should not come here to destroy our community and spoil our children. (9RT 671) Two, the U.S. Government should stop the communists from attacking American citizens. (9RT 671) Appellant’s

protest was to Dam Vinh Hung, the singer performing at the concert. (9RT 671)
Before Hung had come to San Jose, there were protests against him at a concert in Dallas. (9RT 672) Hung sang a song of praise to Ho Chi Minh. (9RT 672) Minh was something like Lenin or Mao Tse-Tung.
(9RT 672) He was one of the founders of Communist Vietnam and had killed a million people in Vietnam. (9RT 672)
Hung was a spearhead of communist cultural attacks. (9RT 673) He was sent to spoil the youth and cause a division in the community. (9RT 673 ) Another communist singer, Lang Lang, had sang anti-American songs at the White House. (9RT 673)
Also to sing at the concert was My Tam, a woman and another communist performer. (9RT 674)
Appellant’s plan included displaying to the audience his underwear on which a Vietnamese flag had been painted with the slogans “Down with Ho Chi Minh” and Down with “Dam Vinh Hung". “ (9RT 675) Appellant was also carrying an artificial lotus flower because the lotus was the symbol of Ho Chi Minh. (9RT 677) That it was artificial demonstrated Ho Chi Minh was a big liar, a criminal and not a real hero. (9RT 678)
When the singer came near, appellant gave him three good shots of perfume mixed with fish sauce. (9RT 677) Appellant decided to use fish sauce because label on the pepper spray said if not used in self defense, use was a crime. (9RT 678) Fish sauce is a kind of humiliation and doesn’t do you any harm but is a little inconvenient. (9RT 678)
Appellant created the mixture of fish sauce and perfume in a perfume bottle. (9RT 678) He took out some perfume from the bottle and

replaced it with fish sauce. (9RT 678) He had to mix the two because fish sauce was so heavy and he wouldn’t be able to spray it. (9RT 678) As he approached the stage, appellant had the perfume/fish sauce in his left bra, one pepper spray in his right bra and another pepper spray in his underwear. (9RT 679)
Appellant needed the pepper spray because he knew Tony Ninh’s henchmen would attack him. (9RT 679) Everybody in San Jose knew Ninh; he was a familiar concert promoter and a big boss. ((RT 68)
He planned to threaten Ninh’s men them with the pepper spray and escape. (9RT 679-680) He knew Ninh did not hire security on than Dickerson so his henchmen would be there. (RT 680)
After he sprayed, Ninh attacked appellant on the right side and many of the guys seen in the video running on to the stage were his henchmen. (9RT 680) People’s Exhibit 21 showed Dickerson on his left and Ninh on his right. (9RT 684) At the time he was grabbed by Dickerson and Ninh, he no longer had the perfume bottle in his hand. (9RT 681) It fell on the around somewhere. (9RT 682) Dickerson carried him out like a baby. (9RT 683)
People’s Exhibit six was a photograph of the pepper spray canister that was in his bra. (9RT 686) The canister in the photo had a ruler next to it indicating the canister was four inches long. (9RT 687) Trial counsel had appellant hold a pen in his hand that was also four inches long simulating how he held the perfume bottle. (RT 688) The bottom of the pen could be seen protruding from his hand. (9RT 688) However,
People’s Exhibit u, apparently a photo of appellant approaching the state, did not show anything protruding from the bottom of appellant’s hand.

(9RT 688) The demonstrative evidence was marked collectively as Defense Exhibit w. (9RT 688-689) Immediately after Dickerson handed appellant over to the police one of the officers his left hand behind his neck and almost broke it.10 (9RT 690) A metal part of the wall was right in front of appellant’s face so he turned his head and yelled “Do not use excessive force.” (9RT 691) At that point the officers banged appellant’s head against the metal and said “Do not resist.” (9RT 692) Appellant’s head began gushing blood. (9RT 693) People’s Exhibit 20, taken later at the jail, showed blood on appellant’s neck. (9RT 693-694)
Appellant made his statement to a television station about a week after the incident at a concert by Dam Vin Hung in Orange County appellant was protesting. (9RT 695) In that statement appellant admitted he said he used pepper spray at the July 18, 2010, concert. (9RT 965) That was not true and he said it to “drum up” the incident and to prevent damping the spirit of the 4000 people coming to the Orange County Concert. (9RT 695) It was not a statement under oath and he meant it as propaganda. (9RT 696) The transcript of the television interview had many mistakes. (9RT 705)
Appellant stated he was in jail for 21 years for his political activity fishtina, communists. (9RT 698) During that time he and his comrades were subject to all kinds of torture. (9RT 699)
Appellant went on a hunger strike when there was a plan to call the one local shopping center Vietnam Tower. (9RT 700) This was because the Vietnamese communists want to buy the center with laundered money. (RT 700) The protesters wanted to call the shopping center Little Saigon.

(9RT 701) The protesters believed changing the name would give them more power to limit local communist activities and to force the performers to pay all police costs among other expenditures. (9RT 701) Most of the Vietnamese community in San Jose was from South Vietnam. (9RT 701) Appellant put makeup on the day of concert and practiced walking in high heels for about 10 minutes. (9RT 707-70) He read the material on both canisters of pepper spray. (9RT 709) People’s Ex. 24 is a photo of how he looked in costume. (9RT 712) Appellant taped a tampon to the panties. (9RT 714) He went to theater twice before incident because had never been there before. (9RT 717) Appellant paid $50 to a guy standing outside for a ticket. (9RT 718) It was for last row aisle seat. (9RT 918) Appellant did not remember telling Sgt. Nguyen he purchased the ticket at theater and asked for aisle seat; all he said was he bought the ticket at the theater. (9RT719)
When appellant approached the stage, DamVinh Hung was singing a love song. (9RT 721) This was after he sang a song for Ho Chi Minh seen in the You Tube video. (9RT 722) When Hung bowed down to take flower, appellant sprayed him in the face. (9RT 723) Appellant was almost touching the stage when this happened. (9RT 728) Appellant knew Dam Vinh Hung could not be harmed much because he was using fish sauce.
(9RT 723) Fish sauce stinks and is heavy but does not vaporize. (9RT 724) Appellant agreed he wanted to offend, embarrass and make a statement. (9RT 726) He has sprayed his hair with alcohol and it gets a little in your eyes but just washing it makes it go away. (9RT 726) It doesn’t burn. (9RT 726-727)
10 Appellant could not use his left hand normally anymore. (9RT 690) 20

He knew there would be women and children at concert. (9RT 729) Appellant was not concerned spraying could affect other concert-goers because fish sauce does not vaporize. (9RT 729) Nobody could smell it for same reason. (9RT 729) Appellant was not going to assault Hung: it would just be a warning. (9RT 730) He did think it was an assault because it was not “serious stuff.” (9RT 730) He thought it was some kind of misdemeanor as originally charged. (9RT 731)
Had appellant seen police , he would not have sprayed because he would have been arrested. (9RT 732) He felt he could get away from the “henchmen” but not police. (9RT 732)
He did not tell Sgt. Nguyen he was there to pepper spray Hung; he told Nguyen he was just going to “spray.” (9RT 733) Only later did Nguyen ask how many pepper sprays appellant had. (9RT 733) He got the fish sauce from home and the perfume from K Mart. (9RT 734, 736) He needed something smaller than pepper spray so he could hold in hand.
(9RT 734) It would be something like 2.5 inches. (9RT 734-735) He bought ten bottles so he could get one to work. (9RT 735) It was round. (9RT 736) He didn’t alter the bottle, and just exchanged some fish sauce for perfume. (9RT 738) Mixing with water would not have worked because it would be too heavy. (9RT 756)
When this first happened, there was a lot of publicity. (9RT 739)
All the Vietnamese community loved it; there was no way to stop them. (9RT 739)
He waited today to reveal that it was fish sauce to unmask the conspiracy. (9RT 740) Appellant referred to to varying testimony about what happened to crowd to claim all the testimony so far is perjury. (9RT

740) He did not mislead (he community but only did not want to dampen their spirit. (9RT 741) Every single day he was recorded in front of courthouse. (9RT 741) One of the things he had to tell the people about was all the perjury. (9RT 743) Hung made no threats to physically attack, only mentally. (RT 744) But he might have physically attacked appellant. (9RT 745) His actions at the concert were a mission for him. (RT 946) Just like tellins the stewardesses on an airplane in Vietnam he had a time bomb so he could get into the cockpit to drop leaflets from the airplane. (9RT 747-748) He bailed out after dropping the leaflets. (9RT 747) He had binoculars taped to his knee under his pants to simulate the bomb. (9RT 749) He was caught and put into prison. (9RT 750, 771-772)
One month before the end of the Vietnamese war, appellant was shot down and captured. (9RT 773) He escaped after six years and made his way to Singapore and eventually to the United States. (9RT 773-774)
In 2000, he flew to Cuba and dropped leaflets opposing the Castro regime. (RT 774-775) He returned to Southeast Asia in the same year and hired an airplane in Thailand from which he dropped ant-communist leaflets on Saigon. (9RT 775)
When he was released from jail he wore the dress. (9RT 751) People’s Exhibit 25 is what he looked like when released. (9RT 752) Appellant admits his spraying plan was not self-defense. (9RT 754)
Appellant admitted a hunger strike in the past in which he harmed himself. (9RT 757) He had done other types of peaceful protests. (9RT 757) He first admitted his fish sauce spraying was an assault but then said it was not an assault but just a warning. (9RT 758)

He paid $1000 for real wig. (7RT 759) He had actually bought it for another occasion in which he intended to hang a garland with “Down With Communism” on the Vietnamese vice prime minister’s back. (9RT 759-762) However, he was caught before he could carry out his plan. (9RT 759) Appellant admitted photo-shopping one of the photos he got from the photographer because it was not clear. (9RT 763-764) When asked in one of his interviews outside the jail appellant declared he was not sorry for what he did. (9RT 766) It there was no civil disobedience, there would be no revolution. (9RT 767) Appellant declared the media and 99% of the community loved him. (9RT 768) The court sustained the prosecutor’s objection to appellant’s question as to what resolution 36 was. (9RT 77)

ARGUMENT
I THE COURT COMMITTED REVERSIBLE ERROR IN
DENYING APPELLANT’S Batson-Wheeler MOTION.
Introduction.
This issue in this appeal is somewhat unusual. It concerns an initial finding by the trial court that a peremptory challenge of a single Vietnamese prospective juror did not raise a prima facie case giving rise to an inference of discriminatory purpose. Immediately following the court’s finding that no prima facie case had been shown, the court offered the prosecutor the opportunity to voluntarily provide the reasons why it challenged the single prospective juror. The prosecutor accepted and voluntarily presented her reasons. Those reasons were not supported by the record. Appellant submits those reasons coupled with the other relevant evidence establish that the court’s determination that no prima facie case had been shown was reversible error. This court should reverse and remand.
a.   Factual and Procedural Background.
On May 9, 2012, the prosecution’s peremptory challenge of perspective juror Mr. Vo was granted. (2VDRT11 210-211) Appellant’s trial counsel immediately posed a Batson12-Wheeler13 motion at the bench. (2VDRT 228)
11 Citations to 2VDRT are to Volume 2 of the reporter’s transcript of the jury voir dire filed October 11, 2012.
12 Batson V. Kentucky (1986) 476 U.S. 79, 106 S.Ct. 1712, 90 L.Ed.2d 69.
13 People V. Wheeler (1978) 22 Cal.3d 258, 148 Cal.Rptr. 890, 583 p.2d 748

In his response to the general biographical question asked of all jurors, Mr. Vo had testified his name was Tung Vo, he was born in Vietnam and had lived in this county since 1978. He was a software engineer, single and had no children. He had no prior jury experience and didn’t have anything else to disclose. He could be impartial. (2VDRT 139) When later asked by the prosecutor whether he would have a problem with the fact no victim would be called as a witness, Mr. Vo answered as follows: At first I didn’t think there was a victim involved. And also there are active wrongdoing that might not involve a victim.
Say vandalism. A victim might be – a victim can be a collective, just like a city or county. So I think I would be base my analysis or judgment on the act of — the evidence of this prosecution.
Mr. Vo added that was “‘regardless of whether there is a victim.” (2VDRT 171-172)
The prosecutor next addressed Mr. Vo as follows” “You heard the charges as they were read. They were read yesterday and they were read today. Right? Mr. Vo answered “Yes.” The prosecutor then asked Mr. Vo “[S]o you know that one of the charges had the name of a victim. Do you remember hearing that? Mr. Vo replied “I might have missed that. Yes.” (2VDRT 172)
The prosecutor next asked “So my question is that if you don’t hear from that person, that named person, how are you going to feel about that?) Mr. Vo answered “I would prefer to have a victim present and have his or her say, but given the choice – given that’s not the option, then I have to pay more attention to the evidence presented beside the victim’s. (2VDRT 172)

At the hearing on appellant’s motion, the court asked trial counsel to articulate his objection for the record “being mindful of the fact you need to establish a prima facie case. Trial counsel replied Vo had been the only member in the jury box of Vietnamese descent. (2VDRT 228) Trial counsel argued he believed his challenge could be based upon a single juror. (2VDRT 228) Trial counsel argued further that Mr. Vo had no disclosures and his answers showed he would have no problem with the lack of a victim. (VDRT 229) He would be fair and impartial. (2VDRT 230) Trial counsel continued he thought that there is a very limited basis for a challenge other than the fact [Mr. Vo] was of the same group as appellant. (2VDRT 230) After the prosecutor argued that all that had been shown was that Mr. Vo was a member of a cognizable group, the court found there had been an “insufficient showing or a prima facie case of group bias” and denied appellant’s motion. (2VDRT 23 ])
At that point the court offered the prosecutor the opportunity to voluntarily place on the record why she had challenged Mr. Vo. (2VDRT 231) The prosecutor replied she had “no problem” doing that. (2VDRT 231) She had dismissed Mr. Vo “because [she] felt when [she] was talking to him, his body language toward [her], his inability to look [her] in the eye, he didn’t seem very open.” (2VDRT 231) Further, “[ajlthough he answered the questions, he didn’t seem open. [She] didn’t think he would be the type that would be able to deliberate as a group. He seemed closed in and that is the reason [she] excused him.” (2VD 231
Trial counsel then asked the court whether the court’s ruling was based on the fact it concerned a single juror. (2VD 232) The court replied “Well, you have got to show group bias. Perhaps that could be done on the

basis of a single juror. I’m simply making a finding that a prima facie case has not been shown. And I am looking at a checklist of factors and I am just finding that you did not meet the criteria.” (2VD 232) Neither the court, trial counsel nor the prosecutor added anything further to the record regarding the motion.
b.   Batson-Wheeler Procedure and Standards.
This court recently set out the standards and procedure to be used in Batson-Wheeler challenges in People V. Long (2010) 189 Cal.App.4th 826, 841. First noting that both the state and federal Constitutions prohibit the use of peremptory challenges to remove prospective jurors based solely on group bias, the court then included a quotation from Johnson V. California (2005) 545 U.S. 162 which had reaffirmed that Batson states the procedure and standards to be employed by trial courts when evaluating Batson- Wheeler challenges:
First, the defendant must make a prima facie case “by showing that the totality of the relevant facts eives rise to an inference of discriminatory purpose.” [Citations.] Second once the defendant has made out a prima facie case, the “burden shifts to the State to explain adequately the racial exclusion” by offering permissible race-neutral justifications for the strikes. [Citations.] Third, “[i]f a race-neutral explanation is tendered, the trial court must then decide … whether the opponent of the strike has proved purposeful racial discrimination.” [Citation]” (People V. Cornwell (2005) 37 Cal.4th 50, 66-67, quoting Johnson V. California, supra, 545 U.S. at p. 168.)
Also particularly relevant in this appeal is the well established rule that “[t]he exclusion of a single juror on the basis of race or ethnicity is an error of constitutional magnitude requiring reversal. (People V. Silva (2001) 25 Cal.4th 345, 386.

c.   The Totality of the Relevant Facts Demonstrates That the Court’s Determination That There Was No Inference of Discriminatory Purpose Was Clearly Erroneous and Reversal Is Required. 1.   The Attitude of the Local Vietnamese Community and Its Probable Impact on Jury Selection.
The “elephant in the room” in this appeal is the attitude of the local Vietnamese community regarding appellant and his actions. This attitude had to be known to the prosecutor and surfaced repeatedly during the trial.
Sgt. Gilbert testified that he knew there was a group of anti­communist activists who responded to events they considered pro­communist. The performers in the concert were from communist North Vietnam. There is no doubt appellant’s motive in spraying the performer was political. He wanted to embarrass and send a message to the communist faction. He further described his motive as self-defense to keep the communists from influencing the local community.
When Sgt. Gilbert arrived at the concert site there were over a hundred loud but peaceful protesters outside the concert site. Sgt Nguyen first estimated the number of protesters at about 50 but in his report stated there were 250-300.
Appellant’s character witnesses testified to his good character and to his popularity and activism in the local Vietnamese community. One, in fact, stated the community loved him. According to appellant, most of the local Vietnamese community was from South Vietnam. Appellant asserted the media and 99% of the community loved him. The community loved what he had done.
Appellant submits that in these circumstances, the prosecutor had to
be aware that there was a heightened possibility any Vietnamese juror
28

could be a sympathizer of appellant and “radioactive” as a possible nullifier. It gave her a reason to be particularly suspicious of prospective Vietnamese jurors. 2.   The Prosecutor’s Proffered Reasons Were Either Not
Supported By The Record Or Were Not Evidence Of
Racial Neutrality.
The prosecutor’s proffered reasons are part of the totality of relevant facts in determining whether or not the challenge had given rise to an inference of discriminatory purpose. There could be no other rational purpose to include them in the record other than to be available for appellate review. Johnson V. California, supra, 545 U.S. 162, which dealt with a step 1 issue, implies what the prosecutor might have to say about his reasons for a challenge should, in some circumstances, be sought out. (Id., at p. 165.)
There is absolutely nothing in the record of the questioning of Mr. Vo supporting or corroborating the prosecutor’s claim that he was closed in and not open. There is also nothing in the record supporting or corroborating the claim that he did not look the prosecutor in the eye. The claim that appellant would not be one to deliberate in a group is belied by the thoughtful and, appellant submits, open answers on the issue of whether or not the presence of a victim would matter.
Appellant submits that the analysis provided by decisions dealing with step three of the Batson process is helpful here. The logic is applicable here. A ruling against the prosecutor on whether a challenge reason was race neutral inescapably means the reason necessarily at least supported an inference of discriminatory purpose.
As to body language and demeanor evidence:

…[When the prosecutor bases a peremptory challenge on an unrecorded aspect of a prospective juror’s appearance or behavior, we must and will look for some support in the record for the prosecutor’s observation. In this case, the record is devoid of any mention, let alone description, by the trial judge or the prosecutor of what was disturbing or unseemly about T.N.s’ body language or way of expressing himself. People V. Long, supra, 189 Cal.App.4th 826, 848.)
The Long court went on to hold “we must conclude that the trial court erred in accepting the prosecutor’s virtually unverifiable and unverified explanation for challenging TN.” (Ibid.)
In Snyder V. Louisiana (2008) 552 U.S. 472, the court noted deference was especially appropriate where the trial judge made a finding that an attorney credibly relied on demeanor in exercising a strike. However, the Snyder court refused to grant that deference primarily because the record did not show that the trial judge made a determination concerning the prospective juror’s demeanor. {Id., at p. 479.)
3.   Conclusion.
This court should reverse and remand.

II
THE TRIAL COURT COMMITTED REVERSIBLE ERROR BY DENYING APPELLANT’S MOTION FOR ACQUITTAL UNDER SECTION 1118.1 ON THE VIOLATION OF SECTION 375 ALLEGED IN COUNT FOUR BECAUSE COUNT FOUR WAS A GENERAL STATUTE AND PROSECUTION ON THE VIOLATION OF SECTION 12403 7 ALLEGED IN COUNT TWO WAS PROSECUTION UNDER A SPECIAL STATUTE THAT PRECLUDED PROSECUTION UNDER SECTION 375. Background.
At the conclusion of the prosecution’s case, appellant moved for acquittal of all counts under Section 1118.1. (7RT 459) Appellant argued that Count 2, which was charged under Section 12403.714, subdivision (a), was a special statute that could not be prosecuted along with Count 4, which alleged a violation of Section 375, subdivisions (a) and (d). (7RT 459)
The trial court heard partial argument on the motion but deferred ruling because it was going to take some time to look into the issue. (7RT 467) The court resumed the hearing on the motion just prior to final arguments and denied appellant’s motion. (10RT 791-803)
a.  Applicable Statutes
At the time of trial Section 12403.7 provided in relevant part as follows:
14 Section 12403.7 has since been renumbered as Section 22810 without substantive change. Appellant will cite to Section 12403.7 under its original number so as to more closely track the arguments in the trial court. 31

Notwithstanding any other provision of law, any person may purchase, possess, or use tear gas and tear gas weapons for the projection or release of tear gas or tear gas weapon if such tear gas and tear gas weapons are used solely for self-defense purposes, subject to the following requirements: (a) No person convicted of a felony or any crime involving an assault under the laws of the United States, the State of California, or any other state, government, or country, or convicted of misuse of tear gas under subdivision (g), shall purchase, possess, or use tear gas or any tear gas weapon.
(b)         No person addicted to any narcotic drug shall purchase, possess, or use tear gas or any tear gas weapon.
(c)          No person shall sell or furnish any tear gas or tear gas weapon to a minor.
(d)         No minor shall purchase, possess, or use tear gas or any tear gas weapon.
Penalty provision subdivision (g)(1) of Section 12403.7 provides as follows:
.. ..any person who uses tear gas or any tear gas weapon except in self- defense is guilty of a public offense and is punishable by imprisonment pursuant to subdivision (h) of Section 1170 for 16 months, or two or three years or in a county jail not to exceed one year or by a fine not to exceed one thousand dollars ($1,000), or by both the fine and imprisonment.
Section 375, subdivisions (a) and (d) provide as follows:
(a) It shall be unlawful to throw, drop, pour, deposit, release discharge or expose in, upon or about any theater or any place of public assemblage any liquid, gaseous, or solid substance or matter of any kind which is injurious to person

or property, or is nauseous, sickening, irritating of offensive to any of the senses…. (d)    Any person who, in violating any of the provisions of subdivision (a), willfully employs or uses any liquid, gaseous, or solid substance which may produce serious illness or permanent injury through being vaporized or otherwise disbursed in the air or who, in violating any of the provisions of subdivision (a), willfully employs any tear gas, mustard gas or any of the combinations or compounds thereof, or willfully employs or uses acid or explosives, shall be guilty of a felony and shall be punished by imprisonment pursuant to subdivision (h) of Section 1170.
b.   Applicable Case Authority
Appellant based his argument on People V. DeLaCruz (1993) 20 Cal.App.4th 955. (“DeLaCruz”).
DeLaCruz was a security guard at a Taco Bell. {Id., 957.) He was armed with Mace for which he had received training and was certified for its use. {Ibid.) DeLaCruz and a patron became involved in an altercation in which DeLaCruz struck the patron with a flashlight. {Ibid.) The two were separated by others but a short time later when they were still separated, DeLaCruz sprayed the patron with the Mace15. {Ibid.) The jury agreed with DelaCruz’s claim of self-defense in the use of the flashlight but rejected his claim of self-defense in the spraying. {Id., 958)
In DeLaCruz, defendant was charged, tried and convicted of a single count of a violation of Section 375. (Id., 58) Defendant had unsuccessfully moved under Section 1118.1 for acquittal claiming he could only be prosecutcd under Section 12403.7 because it was a special statute. {Ibid.)
15 Chemical mace is tear gas within the meaning of the statute. (Cook V. Superior Court (1970) 4 Cal.App.3d 822, 828.) 33

DeLaCruz was charged, tried and convicted of at a time when Section 12403.7 contained the following language in subdivision (6)(A): No person shall purchase, possess, or use any tear gas or any tear gas weapon who has not completed a course certified by the Department of Justice in the use of tear gas and tear gas weapons pursuant to which a card is issued identifying the person who has completed such a course….
In holding that prosecution was precluded by Section 12403.7 from charging a violation of Section 375, the DeLaCruz court first noted “[prosecution] under a general statute is precluded when the facts of the alleged offense parallel the acts proscribed by a special statute.” {Ibid.) Citing In re Williamson (1954) 43 Cal.2d 651, 654, the DeLaCruz court also noted “[w]here [a] general statute standing alone would include the same matter as [a] special act, and thus conflict with it, the special act will be considered as an exception to the general statute whether it was passed before or after such general enactment.16
The court found that it was significant that Section 12403.7 did not restrict the place in which an authorized person may use tear gas. (Id., 961.) This omission lead the court to conclude that a person who meets all the conditions and requirements of section 12403.7 may use tear ơas even in a place of public assemblage even though its use would otherwise be prohibited to under Section 375. {Ibid.) The court concluded that it viewed Section 12403.7 as an exception to the more general provisions of Section 375. (Ibid.)
16 This doctrine is often referred to as the Williamson rule. (See People V. Murphy (2011) 52 Cal.4th 81, 86.)

The court next noted, however, that its conclusion did not dispose of the issue because prosecution under a general statute is not always precluded when the conduct falls under a special statute. {Ibid.) It was not correct to assume that the Williamson rule was inapplicable whenever the general statute contains an element not found with the four corners of the ‘special’ statute. {Ibid.) “Rather the courts must consider the context in which the statutes were placed.” (Ibid.) If it appears from the entire context that a violation of the ‘special’ statute will necessarily or commonly result in a violation of the ‘general’ statute, the Williamson rule may apply even though the elements of the general statute are not mirrored on the fact of the special statute.” [Citation]. The prosecution argument in regard to common result that one is more likely to use pepper spray when there are no other witnesses around misses an important aspect of the contextual argument in this case. (RT 803) While Section 375 is concerned with locations of public assemblage, it contains no requirement that the area actually be occupied by people at the time of the use of tear gas. Therefore, a parking lot, an empty city plaza, and a school in the afternoon after classes have let out would be a place of public assemblage even though there commonly be could be few, if any, witnesses. Use of tear gas by one person against another person in one of those locations would still be in a location of public assemblage. A violation of Section 12403.7 in one of these locations would also commonly be a violation of Section 375.
Appellant points out many of the prohibitions set out in Section 375 appear to be directed at the dumping of toxic waste and the like which could well have a continuing effect. Tear gas, on the other hand, dissipates relatively quickly.

That the court noted that section 375, subdivision (d) did not govern persons certified under section 12403.7 is the recognition that other provisions of law may appear applicable but it is the intent of the legislature they not be. (Id., 963.) The term of art with which Section 12403.7 begins, “[n]ot withstanding other provisions of the law” has been read as an express legislative intent to have the specific statute control despite the existence of otherwise laws which otherwise govern. {Ibid.) In a footnote, the court stated “[w]e express no opinion on whether an uncertified person using tear gas in a place of public assemblage is subject to prosecution under Section 375, subdivision (d) is not before us. {Id., fn. 2, 963) The court had earlier commented that the “enactment of section 12403.7 authorizing use of tear gas by appropriately trained and certified persons without regard to place, impliedly reflects awareness that such use will frequently be necessary in places of public assemblage.
The provisions for training and certification of individuals to possess and use tear gas tear gas weapons were deleted by legislature by in 1995 by AB 830. (CT 293-296) The legislature apparently decided that public safety no longer required training and certification. The comments on AB 830 noted the purpose of the bill was:
to deregulate all civilian tear gas products, including pepper spray, which will make it more affordable and easier for the public to buy. This bill calls for the removal of all required training and certification requirements to purchase and possess pepper spray.
(CT 295)
The comments to the bill also included the following:

Everyone knows how to use an aerosol can. They are used every day from hair spray to bug spray. People know how to spry a can. And that’s exactly what pepper spray is. You just aim it, spray it and run the other way. (CT 295)
Lastly,
There is no supportable evidence that state certification of tear ?as weapons actually creates a safer environment.
(CT 295)
There is no evidence appellant was a felon, a drug addict or a minor. He met all the requirements set out in Section 12403.7. With public safety no longer requiring certification and training, he was entitled to possess and use pepper spray in a public place as much as was a trained and certified Delacruz. The prosecution was, therefore, precluded from prosecuting him under Section 375. He was not the uncertified person using tear gas in a place of public assemblage DeLaCruz excluded from its holding in fn 2.
(.DeLaCruz, 963.) DeLaCruz rejected respondent’s claim that a trained, certified person using tear gas not in self-defense could be prosecuted under Section 375 because of the context of the statues. {Ibid.) That is exactly what happened in this appeal,
c.   Conclusion
For the many reasons set out above, Section 12403.7 is a special statute that precludes prosecution under Section 375. This court should reverse and enter a judgment of acquittal on the violation of Section 375 set out in Count 4.

CONCLUSION For the reasons stated, this court should:
1.    Reverse and remand regarding the Batson-Wheeler error.
2.    Reverse appellant’s conviction on Count 4 for a violation of Penal Code section 375.
Dated: November 14, 2012
Respectfully submitted,
ALFO Appell


CERTIFICATE OF LENGTH
I, Alfons G. Wagner, appointed counsel for appellant Ly Tong, hereby certify, pursuant to the California Rules of Court, that the word count for this document is 10,047 words, excluding the tables, this certificate, and any attachment permitted under rule 8.204. This document was prepared in WORD and this is the word count generated by the program for this document. I declare under penalty of perjury under the laws of the State of California that the foreeoing is true and correct.
Dated: November 14, 2012
ALFO]                                          for Appellant LY TONG


PROOF OF SERVICE BY MAIL (CCP S3 1013A. 2015.5)
I am an active member of the State Bar of California whose business address is 14 Monarch Bay Plaza, #355, Monarch Beach, CA 92629. I am
not a party to this cause.
On November 14, 2012,1 served the attached APPELLANT’S
OPENING BRIEF on the following persons by depositing true copies
thereof in a sealed envelope with first class postage fully prepaid in the
United States mail at Laguna Beach, CA, addressed as follows:
KAMALA D. HARRIS.                   Attorney for respondent
Attorney General of the State of California
455 Golden Gate Avenue, Suite 11000 San Francisco, CA 94102-3664
Lori Quick
Sixth District Appellate Program 100 N. Winchester Blvd., Suite 310 Santa Clara, CA 95050
Ly Tong
1990 UpHall Court San Jose, CA 95121
Hon. Andrea Bryan
Santa Clara County Superior Court
191 N. First Street
San Jose, CA 95113
Santa Clara County District Attorney 70 West Hedding Street San Jose, CA 95110

Daniel Portman Santa Clara County Public Defender 120 West Mission Street San Jose, CA 95110
I declare under penalty of perjury under the laws of the State of California that the foregoing is true and correct.
Dated: November 14, 2012