Khác nhau về cách thức tổ chức nhà nước là điểm quan
trọng dẩn đến sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ. Hơn nửa,
do đi theo hai trương phái luật khác nhau, Common law và Civil law, Việt Nam và
Hoa Kỳ có những điểm khác biệt về việc sử dụng án lệ trong lý luận cũng như thực
tiển pháp lý. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi phân tích, so sánh hệ thống
pháp luật hai nước về nguồn của luật – cách thức tổ chức hệ thống pháp luật theo
chiều dọc.
1.
TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT LIÊN BANG HOA KỲ
Hệ thống
pháp luật Hoa Kỳ có nhiều cấp, có thể là nhiều hơn hầu hết các nước khác.
Nguyên nhân một phần là do có sự phân chia giữa luật liên bang và bang. Để hiểu
được điều đó, cần nhắc lại rằng lịch sử Hoa Kỳ không phải hình thành từ một quốc
gia, mà là một liên minh 13 khu vực thuộc địa, mỗi khu vực đều độc lập tách khỏi
Anh Quốc. Do đó, Tuyên ngôn độc lập
(1776) có nói đến “Dân tộc các khu vực thuộc địa”, nhưng đồng thời cũng thừa nhận
“Các khu vực thuộc địa Hợp chúng quốc là, và có quyền được làm, CÁC
BANG TỰ DO VÀ ĐỘC LẬP”. Sự giằng kéo giữa một dân tộc và nhiều bang là
một vấn đề bao trùm lịch sử pháp lý Mỹ. Như giải thích ở dưới, Hiến pháp Mỹ
(thông qua năm 1787, phê chuẩn năm 1788) bắt đầu một quá trình chuyển đổi đầy
tranh cãi, chậm chạp và gián đoạn, từ chỗ quyền lực và thẩm quyền pháp lý nằm
trong tay các bang, đã chuyển giao cho nhà nước liên bang. Tuy nhiên, đến nay
các bang vẫn giữ nhiều thẩm quyền lớn. Các sinh viên nghiên cứu hệ thống pháp
luật Mỹ phải hiểu được tại sao phạm vi thẩm quyền lại được phân chia giữa chính
quyền liên bang và các bang.
Hiến
pháp đã xác định nhiều ranh giới giữa luật liên bang và bang. Nó cũng phân chia
quyền lực liên bang thành các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp (tạo ra cái
gọi là “tam quyền phân lập” và gìn giữ một cách thiêng liêng hệ thống “kiềm chế
và đối trọng”, nhằm ngăn chặn không cho một ngành nào đó có thể lạm dụng quyền
lực của các ngành khác); và mỗi ngành có đóng góp riêng biệt vào hệ thống pháp
lý. Trong hệ thống đó, Hiến pháp quy định những loại luật mà Quốc hội có thể
thông qua.
Nhưng
ngoài ra còn nhiều vấn đề phức tạp khác: luật Mỹ không chỉ là các đạo luật do
Quốc hội thông qua. Trong một số lĩnh vực, Quốc hội có thể cho phép các cơ quan
hành pháp được ban hành các quy tắc chi tiết hóa luật định. Và toàn bộ hệ thống
được dựa trên các quy tắc pháp lý truyền thống của Thông luật Anh. Mặc dù Hiến pháp và các đạo luật đều có giá trị
cao hơn thông luật, toà án vẫn tiếp tục áp dụng các nguyên tắc thông luật bất
thành văn để lấp các chỗ trống chưa được Hiến pháp đề cập, cũng như không được
Quốc hội luật hóa.
2.
NGUỒN CỦA LUẬT – HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THEO CHIỀU
DỌC
2.1.
Luật thành văn
Việt Nam theo trường phái luật
Châu âu lục địa( Civil law) nên luật viết là nguồn chính thức, chủ yếu của hệ
thống pháp luật. Do vậy, thẩm quyền ban hành, hiệu lực pháp lý của văn bản là yếu
tố tạo nên hệ thống pháp luật về chiều dọc khi xét đến. Ngược lại, là điển hình
của trường phái Common law, hệ thống pháp luật Hoa kỳ mang những đặc điểm
riêng, kèm theo đó là tính phức tạp trong quá trình vận hành hệ thống pháp luật.
2.1.1. Hiến pháp và tính tối cao của pháp luật
Hiến pháp là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất ở các nước
lập hiến. Điều này đồng nghĩa với tất cả các văn bản pháp lý khác( kể cả điều ước
quốc tế) phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp. Việt Nam cũng không ngoại lệ,
tính tối cao đó được quy định rất rõ tại điều 146, Hiến pháp 1992, là: “ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi
văn bản pháp luật khác phải phù hợp với
Hiến pháp.”
Ở Mỹ, trong giai đoạn 1781–1788, đã có một thỏa thuận gọi là
Hiến chương liên minh điều chỉnh mối quan hệ giữa 13 bang. Một Quốc hội tòan
quốc tương đối lỏng lẻo được thành lập. Mặc dù mỗi bang đều cam kết danh dự sẽ
tuân thủ phán quyết tòa án củ a các bang khác (theo cơ chế “tin cậy và tín
nhiệm hoàn toàn”), nhưng Hiến chương không có quy định nào về thẩm quyề n pháp
lý liên bang, trừ quy định về tòa án hàng hải.
Việc xây dựng và phê chuẩn Hiến pháp thể hiện ngày càng có sự
đồng thuận trong vấn đề cần phải củng cố nhà nước liên bang. Hệ thống pháp luật
là một trong những lĩnh vực thực hiện được vấn đề đó. Nội dung quan trọng nhất
là “điều khoản tối cao”, trong Điều VI của Hiến pháp:
“ Hiến pháp này, và các
luật của Hợp chúng quốc được xây dựng trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp, và tất cả
các hiệp ước đã được ký kết hoặc sẽ được ký kết, với tư cách thẩm quyền Hợp
chúng quốc, sẽ là luật tối cao của tổ quốc; và mang tính ràng buộc đối với thẩm
phán ở tất cả các bang, cho dù trong Hiến pháp và luật của các bang có bất cứ
nội dung gì trái ngược.”
Quy định này đã thiết lập nguyên tắc tiên quyết của luật Hoa
Kỳ: Một khi Hiến pháp đã quy định, không bang nào được quyền làm trái. Có một
điểm vẫn chưa rõ, là điều cấm này sẽ được áp dụ ng cho bản thân chính quyền
liên bang như thế nào, và hệ thống pháp luật từng bang có vai trò như thế nào
trong nhữ ng lĩnh vực mà Hiến pháp không quy định rõ. Các tu chính án Hiến pháp
đã phần nào trả lời vấn đề nà y; lịch sử còn nhiều thăng trầm, và thậm chí đến
nay, người Mỹ vẫn tiếp tục vật lộn để định ra đường phân giới rõ ràng giữa thẩm
quyền liên bang với thẩm quyền bang.
1.1.1.
Vai
trò của Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp trong hệ thống pháp luật
Nhà nước là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị của
một quốc gia. Một trong những chức năng quan trọng và duy nhất của nhà nước là
tạo ra pháp luật – công cụ hữu hiệu và chủ yếu để Nhà nước quản lý xã hội. Mổi
quốc gia có cách thức tổ chức quyền lực nhà nước khác nhau, nhưng tựu chung,
chúng luôn hướng đến tính cân bằng và hợp lý trong phân chia quyền lực nhà
nước. Đơn giản, nếu một đạo luật được tạo ra, đòi hỏi phải có cơ chế đảm bảo
thực hiện và bảo vệ nó, và chức năng này không thể tập trung vào trong tay một
chủ thể nào cả, vì chúng ta không thể chấp nhận đối tượng “vừa đá bóng vừa thổi
còi” được.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
dân, do dân, vì dân; quyền lực nhà nước tập trung trong tay nhân, thông qua cơ
quan đại diện là Quốc hội và có sự phân công, phân nhiệm trên ba chức năng: lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Nguyên tắc tập trung, dân chủ luôn chi phối toàn
diện về phương thức tổ chức cũng như hoạt động đối với bộ máy nhà nước Việt
Nam.
Khác với Việt Nam, do ảnh hưởng từ học thuyết tam quyền phân
lập của Montesqueiu(1689-1755),
khi những người dự thảo Hiến pháp tìm cách củng cố nhà nước
liên bang, họ cũng sợ là sẽ tăng cường quyền lực quá mức. Một biện pháp nhằm
khống chế cơ chế mới là phân chia thành các ngành. Như James đã giải thích trên
tờ Federalist (Người liên bang) số 51, “sự lạm dụng quyền lực được
khống chế bằng cách chia nhà nước thành các cấu phần tách rời một cách rõ rệt”.
Mỗi một “cấu phần” của Madison (lập pháp, hành pháp và tư pháp) được trao một
công cụ tác động lên hệ thống pháp luật.
1.1.1.1.
Lập pháp
Ở Việt Nam, Hiến pháp trao quyền lập hiến, lập pháp, một cách
duy nhất, cho Quốc hội. Tại điều 83, Hiến pháp 1992, quy định:
“ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Quốc
hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách
cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà
nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối
cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.”
Văn
bản quy phạm pháp luật mà Quốc hội có thẩm quyền ban hành là Hiến pháp, Bộ luật,
Luật và Nghị quyết và văn bản do Quốc hội ban hành có giá trị pháp lý cao nhất.
Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội trong khoảng thời
gian không họp của mình. Theo quy định, Ủy ban thường vụ quốc hội có thẩm quyền
ban hành Pháp lệnh và Nghị quết, có giá trị pháp lý thấp hơn.
Hiến pháp Hoa kỳ trao quyền thông qua luật cho Quốc hội. Một
đề xuất được Quốc hội xem xét được gọi là một dự luật (bill). Nếu đa
số thành viên mỗi viện (Thượng viện và Hạ viện) thông qua (trong trường hợp
Tổng thống phủ quyết, thì tỷ lệ đa số phải là hai phần ba), thì dự luật sẽ trở
thành luật. Luật liên bang được gọi là đạo luật (statute). Còn Bộ
luật Hoa Kỳ (United States Code) là kết quả của việc “pháp điển hoá” các
đạo luật liên bang. Bản thân Bộ luật không phải là một luật, mà nó chỉ
là các đạo luật được sắp xếp theo trật tự lôgích. Ví dụ, Tiêu mục (Title) 20
bao gồm các đạo luật về Giáo dục, còn Tiêu mục 22 bao gồm các đạo luật về Đối
ngoại.
Quyền làm luật của Quốc hội bị giới hạn. Nói chính xác hơn,
nó được người dân Mỹ ủy quyền thông qua Hiến pháp, trong đó quy định những lĩnh
vực mà Quốc hội có quyền hoặc không có quyền làm luật. Điều I, Mục 9 của Hiến
pháp cấm Quốc hội thông qua một số loại luật. Ví dụ, Quốc hội không được thông
qua một đạo luật hồi tố “ex post facto” (luật áp dụng hồi tố, “sau khi sự kiện
đã diễn ra”), hoặc áp đặt thuế xuất khẩu. Điều I, Mục 8 liệt kê các lĩnh vực
Quốc hội được làm luật. Một số nội dung khá là cụ thể (như “Xây dựng Bưu
điện”), nhưng nhiều nội dung khác thì lại rất chung chung, nổi bật nhất là quy
định “được điều chỉnh thương mại với nước ngoài, và giữa các bang”. Tất nhiên,
quyền diễn giải các quy định thẩm quyền kém chính xác là cực kỳ quan trọng. Do
đó, trong giai đoạn đầu của lịch sử nền cộng hòa, nhờ nắm được vai trò diễn
giải, nên ngành tư pháp đã nắm thêm một vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ
thống pháp luật Hoa Kỳ.
1.1.1.2.
Tư pháp
Hệ thống tư pháp Việt Nam bao gồm hai thiết chế: Viện kiểm
sát và Tòa án , tương tự như Viện công tố và Tòa án của các nước phát triển.
Xét xử là chức năng chính của tòa án, trong khi đó, công tố và bảo vệ pháp luật
là chức năng của Viện kiểm sát theo điều 127, 137 Hiến pháp 1992. Tuy nhiên,
bán án và quyết định của Tòa án không mang tính luật, xét về tính quy phạm, mà
chỉ là những phán quyết mang tính cá biệt. Một điểm nửa, Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao có thẩm quyền ban hành Nghị quyết. Suy cho cùng, đó chỉ là
tập hợp kinh nghiệm xét xử, hướng dẩn giải quyết chung, thống nhất cho ngành để
đảm bảo hiệu quả cho công việc xét xử. Tóm lại, ở Việt Nam, Tòa án nói riêng,
hệ thống Tư pháp nói riêng, không có chức năng làm luật.
Cũng như các ngành khác, quyền của ngành tư pháp Hoa Kỳ được
quy định trong Hiến pháp. Hiến pháp chỉ quy định thẩm quyền xét xử liên bang
trong một số loại tranh chấp nhất định. Điều III, Mục 2 liệt kê những nội dung
này. Hai loại tranh chấp quan trọng nhất là các vụ việc liên quan đến nghi vấn
luật liên bang (“Tất cả các vụ việc về luật và công bằng, phát sinh từ Hiến
pháp, các đạo luật của Hợp chúng quốc và các hiệp ước đã ký kết ...”) và các vụ
việc “đa chủng”, tức là các vụ tranh chấp giữa công dân của hai bang khác nhau.
Thẩm quyền xét xử này cho phép mỗi bên có thể tránh đưa vấn đề ra trước các tòa
án của bang của nhau.
Quyền xét xử thứ hai xuất hiện trong những năm đầu của nền
cộng hòa. Như giải thích trong Chương 2, phán quyết của Tòa án tối cao Hoa Kỳ
trong vụ Marbury kiện Madison (1803) đã giải thích thẩm quyền (được
Hiến pháp ủy quyền) của nó là được phép xác định một đạo luật vi hiến, và tuyên
bố luật vô hiệu. Một đạo luật có thể vi hiến nếu nó xâm phạm các quyền
của người dân được Hiến pháp bảo vệ, hoặc nếu Điều I không cho phép Quốc hội
được thông qua loại luật đó.
Do đó, quyền diễn giải các quy định hiến pháp mô tả lĩnh vực
nào Quốc hội được làm luật là rất quan trọng. Theo truyền thống, Quốc hội
thường chứng minh rằng các đạo luật là cần thiết nhằm điều chỉnh “thương mại
... giữa một số bang”, hay còn gọi là thương mại xuyên bang. Đây là một khái
niệm mềm dẻo, khó mô tả chính xác. Thực tế, mỗi người đều có thể cho rằng gần
như tất cả các đạo luật đều có sự ràng buộc hợp lý giữa mục đích của nó với
việc điều chỉnh thương mại xuyên bang. Nhưng nhiều lúc ngành tư pháp diễn giải
“điều khoản thương mại” một cách bó hẹp. Ví dụ, năm 1935, Tòa án tối cao đã vô
hiệu hóa một đạo luật liên bang quy định số giờ làm và mức lương của người lao
động ở các lò mổ New York, vì tất cả thịt gà được xử lý ở đây đều được bán cho
các cửa hàng và quầy thịt ở New York và do vậy không có yếu tố thương mại xuyên
bang. Tuy nhiên, ngay sau đó, Tòa án tối cao bắt đầu ủng hộ các chương trình
thuộc Chính sách mới (New Deal) củ a Tổng thống Franklin D. Roosevelt một cách
rộng rãi hơn, và ngày nay các tòa án liên bang vẫn tiếp tục diễn giải quyền
thương mại theo nghĩa rộng, mặc dù không rộng đến mức có thể cho phép Quốc hội
có thể thông qua bất cứ loại luật nào.
2.1.1.3. Hành pháp
Chính
phủ - cơ quan hành pháp tối cao của Việt Nam - thống nhất quản lý việc thực hiện
các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở;
bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và
nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Để
thực hiện chức năng của mình, Chính phủ có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, theo quy định tại điều 2, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
2008: Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của
Bộ trưởng các Bộ và Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước. Và, đây là thẩm quyền
lập quy của cơ quan Hành pháp, có hiệu lực pháp lý thấp hơn so với văn bản của
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành.
Điều II, Hiến pháp Hoa Kỳ, trao “Quyền hành pháp” cho Tổng
thống Hợp chúng quốc. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống George Washington, toàn bộ
ngành hành pháp bao gồm một Tổng thống, một Phó tổng thống, và các bộ Ngoại
giao, Ngân khố, Chiến tranh và Tư pháp. Nhưng khi đất nước lớn mạnh lên, ngành
hành pháp cũng phát triển thêm. Ngày nay, có đến 15 bộ cấp nội các. Mỗi bộ có
một số tổng cục, cục và các cơ quan khác. Ngoài ra còn có một phần ngành hành
pháp nằm ngoài các bộ. Tất cả đều thực thi quyền hành pháp do Tổng thống ủy
nhiệm và chịu trách nhiệm cuối cùng trước Tổng thống.
Trong một số lĩnh vực, mối quan hệ giữa hành pháp và hai
ngành kia là không rõ ràng. Giả sử có một hoặc một số người cướp ngân hàng.
Quốc hội thông qua một đạo luật quy định hành vi cướp ngân hàng là phạm tội (Bộ
luật Hoa Kỳ, Tiêu mục 18, Mục 21131). Cục điều tra liên bang (FBI), một cục thuộc Bộ Tư
pháp, có thể sẽ điều tra vụ việc. Khi nó phát hiện một hoặc một số người tình
nghi, một viên Công tố liên bang (cũng thuộc Bộ Tư pháp) có thể cố gắng chứng
minh người tình nghi là tội phạm trong một phiên xét xử do một Tòa án sơ thẩm
cấp hạt Hoa Kỳ tiến hành.
Cướp ngân hàng là một vụ việc đơn giản. Nhưng khi đất nước
ngày càng phát triển và hiện đại hóa, mối quan hệ giữa ba ngành trong hệ thống
luật pháp cũng phát triển để giải quyết các vấn đề phức tạp hơn của xã hội công
nghiệp và hậu công nghiệp. Vai trò của ngành hành pháp thay đổi nhiều nhất.
Trong ví dụ cướp ngân hàng, Quốc hội hầu như không cần đến chuyên môn để có thể
dự thảo một đạo luật quy định hành vi cướp ngân hàng là tội phạm. Hãy giả sử
các nhà làm luật muốn cấm các lọai dược phẩm “nguy hiểm” trên thị trường, hay
hạn chế lượng ô nhiễm “độc hại” trong không khí. Quốc hội có thể chọn cách quy
định chính xác định nghĩa của các thuật ngữ đó. Đôi lúc Quốc hội cũng làm vậy,
nhưng có xu thế là Quốc hội ngày càng tăng cường trao bớt một phần thẩm quyền
của nó cho các cơ quan hành chính công trong ngành hành pháp. Do đó, Cục quản
lý thực phẩm và thuốc (FDA) là cơ quan giám sát độ tinh sạch của thực phẩm và
dược phẩm quốc gia, còn Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) là cơ quan điều chỉnh
vấn đề tác động môi trường đất, nướ c và không khí của các ngành công nghiệp.
Mặc dù các cơ quan nhà nước chỉ nắm giữ những thẩm quyền được
Quốc hội ủy quyền theo luật, nhưng phạm vi thẩm quyền đó có thể khá lớn. Nó có
thể bao gồm quyền được ban hành các quy tắc quy định chính xác các thuật ngữ
chung chung trong luật. Luật có thể cấm lượng ô nhiễm “nguy hiểm” trong không
khí, còn EPA sẽ quy định loại chất và hàm lượng của mỗi loại chất được coi là
nguy hiểm. Đôi lúc luật trao quyền cho một cơ quan nhà nước được phép điều tra
các hành vi vi phạm các quy tắc của nó, phán xử các vi phạm đó, và thậm chí là
cả việc áp dụng lệnh trừng phạt.
Các tòa án sẽ vô hiệu hóa một đạo luật trao quá nhiều quyền
cho một cơ quan. Một đạo luật quan trọng là Đạo luật thủ tục hành chính (Bộ
luật Hoa Kỳ, Tiêu mục 5, Mục 551, và mục tiếp theo) đã giải thích các thủ tục
mà một cơ quan phải tuân thủ khi ban hành các quy tắc, đánh giá vi phạm và áp
dụng chế tài. Nó cũng quy định các bên được phép đưa một quyết định của cơ quan
hành pháp ra xem xét trước toà như thế nào.
2.2.
Các nguồn luật khác
Về mặc lý luận cũng như thực tiển, Việt Nam
vẩn chưa thừa nhận án lệ( thông luật) là nguồn của luật. Theo Hiến pháp, Ủy ban
thường vụ Quốc hội là cơ quan duy nhất, ngoài Quốc hội có thẩm quyền giải thích
luật. Do vậy, các giải pháp, nguyên tắc ghi nhận tại các Kết luận có tác dụng
vạch ra đường lối xét xử của thẩm phán, nhưng không được coi là chuẩn mực xét
xử mà công dân phải tuân theo trong đời sống pháp lý. Tuy nhiên, không thể
không thừa nhận rằng đường lối xét xử tạo ra một hành lang mà một khi không đi
ra khỏi hành lang đó, chủ thể quan hệ pháp luật có thể an tâm với thái độ ứng
xử của mình, nhất là khi vụ việc xảy ra tranh chấp tại Tòa án.
Nguồn rõ ràng nhất của luật pháp Mỹ là các đạo luật do Quốc
hội thông qua, được bổ sung bằng các quy định hành chính. Đôi khi những nguồn
này quy định rõ ràng ranh giới giữa hành vi hợp pháp và phạm pháp – như trong
ví dụ cướp ngân hàng – nhưng không có nhà nước nào có thể ban hành đủ luật để
khép kín được tất cả các tình huống. Rất may là đã có một thực thể khác quy
định các nguyên tắc và chuẩn mực pháp lý giúp lấp các chỗ trống, như trình bày
dưới đây
2.2.1. Thông luật
Khi không có sự khống chế của các quy định hiến pháp và đạo
luật, các tòa án liên bang và bang thường đối chiếu với thông luật; đó là một
tuyển tập các quyết định tư pháp, thông tục và quy tắc chung có từ nhiều thế kỷ
trước ở nước Anh và vẫn tiếp tục
phát triển cho đến nay. Ở nhiều bang, thông luật tiếp tục đóng vai trò quan
trọng trong tranh chấp hợp đồng, do các nhà làm luật của bang thấy không cần
thiết phải thông qua các đạo luật quy định tất cả những trường hợp bất thường
về hợp đồng có thể xảy ra.
2.2.2. Tiền lệ tư pháp
Các tòa án xét xử các hành vi vi phạm luật và các tranh chấp
nảy sinh từ luật. Thông thường, tòa án cần phải diễn giải luật. Để làm điều đó,
các tòa án tự ràng buộc bởi cách giải thích luật trước đó của các toà án cùng
cấp hoặc cao hơn. Đây được gọi là nguyên tắc “theo quyết định trước”, hay đơn
giản gọi là tiền lệ. Nó giúp bảo đảm sự nhất quán và có thể lường trước. Nếu
phải đối mặt với các tiền lệ hoặc luật án lệ (case law) bất lợi, bên bị thường
tìm cách phân biệt sự khác nhau giữa những yếu tố khách quan của vụ việc đang
xem xét với các sự kiện đã dẫn đến quyết định trước đó.
Đôi khi các tòa án diễn giải luật không giống nhau. Ví dụ, Tu
chính án Hiến pháp thứ mười lăm có một quy định là “trong bất kỳ vụ án hình sự
nào, không ai ... bị buộc phải làm chứng chống lại mình”. Thỉnh thoảng lại có
các vụ án trong đó một cá nhân từ chối trả lời các câu hỏi hoặc khai nhận dưới
hình thức khác, trên cơ sở lập luận rằng lời khai đó có thể sẽ được dùng làm cơ
sở khởi tố cá nhân này ở một nước khác (không phải ở Hoa Kỳ). Có thể áp dụng
điều luật tự buộc tội trong trường hợp này hay không? Toà phúc thẩm địa phận số
2 của Hoa Kỳ cho rằng có thể áp dụng, nhưng Tòa phúc thẩm các địa phận số 4 và
11 lại diễn giải ngược lại2. Điều đó có nghĩa là luật pháp khác nhau phụ thuộc nơi
mà vụ việc đó phát sinh!
Các tòa án cấp cao hơn tìm cách giải quyết sự thiếu nhất quán
này. Ví dụ, Tòa án tối cao Hoa Kỳ thường chọn việc xét xử các vụ án nếu phán
quyết của vụ đó có thể giải quyết sự bất đồng giữa các tòa phúc thẩm. Tiền lệ
của Tòa án tối cao sẽ khống chế, hoặc áp dụng cho tất cả các toà án liên bang
cấp dưới. Trong vụ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ kiện Balsys, 524 U.S. 666
(1998), Tòa án tối cao đã phán quyết rằng sợ bị truy tố ở nước ngoài là vượt
quá phạm vi của Điều luật tự buộc tội3.
Phán quyết này trở thành luật của toàn nước Mỹ, kể cả ở khu
vực Tòa phúc thẩm địa phận số 2. Bất kỳ tòa án liên bang nào sau này gặp phải
vấn đề đó đều bị ràng buộc bởi phán quyết của tòa cấp cao trong vụ Balsys.
Tương tự, phán quyết của toà phúc thẩm lưu động vùng có giá trị ràng buộc tất
cả các tòa án hạt trong khu vực. Tiền lệ cũng được áp dụng ở nhiều hệ thống tòa
án bang. Do đó, tiền lệ ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn nội dung diễn
giải.
Kết luận:
Với cách thức tổ chức nhà nước liên bang, pháp luật Hoa Kỳ
được xem là phức tạp trong cách thức tổ chức, quy định và vận hành của mình.
Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp đều có vai trò quan trọng, độc lập tương đối, tác
động đến hệ thống pháp luật Liên Bang. Một điểm nửa, pháp luật Hoa Kỳ là hệ
thống pháp luật điển hình cho trường phái luật Commom law, đặc trưng về cách
thức sử dụng thông luật( án lệ) trong quá trình áp dụng pháp luật. So với Việt
Nam, do ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil law, nên luật viết là nguồn
chính thống( nhưng không duy nhất) tạo chất nền cho toàn bộ hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, theo xu hướng hợp tác, phát triển và tầm ảnh hưởng ngày càng lớn của
pháp luật Hoa kỳ (common law) đã, đang và sẽ tạo nên ảnh hưởng cho quá trình
xây dựng pháp luật Việt Nam. Suy cho cùng, luật viết hay án lệ, cả hai điều có
những ưu, nhược điểm riêng và chúng bổ trợ cho nhau; Do vậy, chấp nhận án lệ là
điều tất yếu để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trên cả về lý luận lẩn
thực tiển và đây cũng là xu hướng chung của pháp luật các nước trên thế giới.