Việt
Nam là quốc gia có lịch sử lập quốc lâu đời, song pháp luật Việt Nam
không phải là một hệ thống pháp luật riêng biệt. Trải qua hàng nghìn năm
bị đô hộ bởi Trung Hoa, sau này là Pháp, rồi trở thành một thành viên
trong khối xã hội chủ nghĩa, pháp luật Việt Nam lần lượt bị ảnh hưởng
bởi pháp luật của các triều đại Trung Hoa, của Pháp, sau cùng bị ảnh
hưởng đặc biệt bởi truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ
Liên Xô. Ngày nay, hệ thống pháp luật Việt Nam có đặc trưng của hệ thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa kết hợp những yếu tố ngoại lai do quá trình
hội nhập kinh tế với phương Tây kể từ thời kỳ đổi mới [2].
Như
vậy, so sánh hai hệ thống pháp luật này là so sánh giữa một nền pháp
luật đặc trưng, lâu đời với một nền pháp luật du nhập ảnh hưởng bởi các
cuộc cách mạng xã hội. Trong bài viết này, chúng tôi xin đưa ra sự so
sánh dựa trên một số tiêu chí như sau:
Thứ nhất, quan niệm về pháp luật
Quan
niệm pháp luật của truyền thống Common Law nằm ở trong chính thuật ngữ
Common Law (tức là án lệ). “Nước Anh không bao giờ tiếp thu quan điểm
của Cách mạng Pháp cho rằng quyền lực của thẩm phán phải được kìm hãm,
rằng họ cần bị hạn chế nghiêm ngặt chỉ áp dụng pháp luật mà cơ quan lập
pháp công bố” [3]. Nước Anh có vị trí địa lý là một hòn đảo tách biệt
khỏi lục địa Châu Âu, do phải đối mặt với những thách thức từ khí hậu tự
nhiên, cuộc sống trên đảo nhiều bất ổn đã dẫn đến tư duy pháp lý linh
hoạt, coi trọng việc giải quyết các vấn đề từ thực tiễn cuộc sống. Do
vậy, tất cả các quy phạm được Tòa án công nhận và áp dụng đều được xem
là nguồn của pháp luật. Pháp luật sinh ra từ chính cuộc sống và được thể
nghiệm bởi các thẩm phán.
Ở
Việt Nam và các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, lấy học thuyết
Mác - Lênin làm nền tảng phát triển cho toàn xã hội, trong đó có lĩnh
vực pháp lý. Pháp luật là sự thể chế hóa đường lối của chính trị, công
cụ của giai cấp thống trị dùng để đảm bảo cho lợi ích kinh tế và giữ
vững nền chuyên chính. Trong quan điểm này, luật không thể sinh ra từ
khu vực “tư”, đó là một luận điểm của Lênin. Khẳng định theo Lênin rằng:
“Mọi pháp luật đều là luật công, đó chỉ là một phương thức khác thể
hiện tư tưởng: Mọi quan hệ pháp lý đều tuân theo tư tưởng chính trị và
quy phạm pháp luật không thể là sự phản ánh cho những nguyên tắc công lý
tiêu biểu cho chúng” [4]. Bị ảnh hưởng sâu sắc bởi hệ tư tưởng trên,
pháp luật Việt Nam là sự thể chế hóa các chính sách của Đảng cộng sản
cầm quyền.
Thứ hai, các đặc trưng pháp lý
- Cơ quan ban hành luật
Nhiều
luật gia cho rằng, hệ thống thông luật bao gồm những điều luật bất
thành văn do thẩm phán lập ra; nhưng nói thông luật là luật bất thành
văn thì không đúng. Ở Hoa Kỳ ngày nay, phần nhiều luật pháp được lập ra
bởi cơ quan lập pháp. Cũng cần lưu ý rằng, nhiều đạo luật ở Hoa Kỳ là sự
pháp điển hóa từ những tiền lệ pháp trước đó. Bản thân những phán quyết
của Tòa án giải thích cho Hiến pháp và cho các đạo luật của cơ quan lập
pháp cũng trở thành nguồn luật. Quan niệm hệ thống pháp luật Common Law
bao gồm những điều luật của thẩm phán làm ra cũng có phần đúng. Những
lập luận trên cho thấy, vai trò thiết yếu của các thẩm phán trong việc
thiết lập nên hệ thống quy phạm Common Law.
Việc
ban hành Hiến pháp và các đạo luật ở Việt Nam thuộc thẩm quyền của Quốc
hội (Điều 70 Hiến pháp năm 2013). Bên cạnh đó, các cơ quan khác như Chủ
tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án cũng có quyền ban
hành những văn bản có tính chất luật (được quy định trong Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2008). Điều này có căn nguyên bởi cơ chế
tập quyền Quốc hội, là nơi tập trung quyền lực lớn nhất (về nguyên tắc)
sẽ có quyền thiết lập hệ thống pháp luật cho quốc gia và áp dụng các đạo
luật do Quốc hội ban hành là yêu cầu bắt buộc đối với thẩm phán trong
quá trình xử án.
- Thủ tục xét xử
Tư
tưởng linh hoạt và thực tế khiến thủ tục xét xử của hệ thống Common Law
coi trọng việc tranh tụng tại phiên tòa. Nó trái ngược với hệ thống xử
án của Việt Nam coi trọng tính thẩm vấn (xét - hỏi). Các thẩm phán của
Anh - Mỹ không tham gia vào việc xét hỏi trên phiên tòa, việc tranh tụng
là do các luật sư của Nhà nước và luật sư bào chữa cho thân chủ của họ
thực hiện, sau cùng các thẩm phán và bồi thẩm đoàn sẽ ra phán quyết dựa
trên những chứng cứ và lập luận của hai bên. Ở Việt Nam, việc xét - hỏi
do thẩm phán thực hiện, cáo buộc người phạm tội (các tội hình sự) là do
Viện kiểm sát (đồng thời là cơ quan kiểm sát tư pháp), các luật sư chỉ
thực hiện tranh tụng dựa trên cơ sở những chứng cứ tự thu thập được.
- Nền pháp chế
Dựa
trên nền tảng tư duy rất khác biệt, các quy tắc pháp lý ra đời nhằm
cung cấp các giải pháp cho các trường hợp cụ thể. Đối với truyền thống
của người Anh, họ luôn coi trọng kinh nghiệm, ít giáo điều và tin vào
tiền lệ. Các quy tắc của Common Law được hình thành từ các quy tắc xã
hội, cũng có sự vận động khi thực tiễn thay đổi thông qua các giải thích
của Tòa án. Về căn bản, nền pháp chế của Common Law dựa trên sự coi
trọng tiền lệ pháp, thông qua ý thức hệ. “Luật không phải được làm ra mà
được phát biểu bởi những người quen biết với tập quán và hiểu biết tập
quán trong một lãnh thổ nhất định” [5]. Do vậy, hệ thống Common Law được
đặc trưng bởi án lệ và tập quán dân sự.
Nền
pháp chế của Việt Nam được gọi tên “Pháp chế xã hội chủ nghĩa”, coi
trọng việc lấp đầy các lỗ hổng pháp lý bằng quy phạm pháp luật do cơ
quan lập pháp ban hành. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi sự thống nhất cao độ
hay tính pháp điển của hệ thống các quy phạm thành văn. Cơ quan thực
thi pháp luật và xét xử bắt buộc phải tuân thủ các quy tắc pháp lý định
sẵn, do vậy tính sáng tạo trong các cơ quan này rất hạn chế. Sau cùng,
nó đòi hỏi tất cả công dân và các cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ nền
pháp luật được làm ra bởi cơ quan lập pháp. Nền pháp chế Việt Nam mang
đặc trưng lý tưởng của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhưng bị khập
khiễng bởi tư duy lập pháp hay thay đổi cộng với nền tư pháp thiếu độc
lập.
Thứ ba, nguồn của luật
Common
Law là hệ thống pháp luật được tạo nên bởi các thẩm phán, là người giải
thích và tuyên bố luật, đồng thời xác định đâu là nguồn của luật. Bản
thân Common Law cũng là nguồn trong hệ thống Common Law. Căn bản tư duy
dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và tập quán, Common Law coi trọng luật
được làm ra từ Tòa án. Ngoài ra, Luật (luật văn bản lập pháp) cũng có
vai trò bổ sung đối với hệ thống pháp luật sẵn có; các nguồn pháp luật
khác như các học thuyết pháp lý, nguyên tắc công bằng (equity) cũng được
ghi nhận và áp dụng khi cần thiết. Việc ban hành các văn bản lập pháp
thuộc thẩm quyền của Nghị viện; ngoài ra Nghị viện có thể ủy quyền lập
pháp cho nhà vua, các bộ trưởng, chính quyền địa phương. Việc ủy quyền
lập pháp phải nằm trong các giới hạn mà luật định. Với tư cách là nguồn
gốc của pháp luật nước Anh, tập quán vẫn được coi trọng trong Common Law
nhưng không bị bắt buộc áp dụng. Trong quá trình áp dụng, tập quán phải
thể hiện tính chắc chắn, được nhiều người khẳng định và tin cậy, sau
cùng phải đạt sự hợp lý trong điều kiện mỗi địa phương. Các học thuyết
pháp lý ít được coi trọng trong Common Law, tuy nhiên tùy từng trường
hợp nó có thể được trích dẫn bởi tính hấp dẫn và sự sâu sắc của các luật
gia.
Dựa
trên nền tảng của hai yếu tố: “Công hữu hóa tư liệu sản xuất và sự
thiết lập chính quyền nhân dân” [6], pháp luật xã hội chủ nghĩa thiết
lập các hình thức pháp luật thông qua kỹ thuật lập pháp. Pháp luật Việt
Nam cũng bị chi phối bởi nền tảng trên để xây dựng nguồn pháp luật của
mình. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay về nguyên tắc chỉ coi văn bản
quy phạm pháp luật là nguồn duy nhất và “là hình thức pháp lý tiến bộ
nhất” [7] so với các loại nguồn luật khác. Có thể dẫn ra mấy lý do như
sau: Một là, sự coi trọng nguyên tắc tập trung quyền lực vào Quốc hội
dẫn đến thiết lập thẩm quyền tối cao về lập pháp cho cơ quan này; Hai
là, bị ảnh hưởng bởi truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa không công
nhận án lệ là một nguồn chính thức; Ba là, năng lực của các thẩm phán
không hội đủ điều kiện để xây dựng nguồn luật từ án lệ.
Như
vậy, ngoài những đặc thù của chế độ chính trị, việc Việt Nam không coi
luật án lệ là một nguồn luật cũng bắt nguồn từ những nguyên nhân thực tế
của một nền tư pháp ít được tin cậy. Hệ thống văn bản do Quốc hội và
các cơ quan khác ban hành vẫn chiếm lĩnh một vị trí trọng yếu trong hệ
thống pháp luật Việt Nam thời gian tới.
Thứ tư, vai trò của tư pháp
Không
chỉ Common Law coi trọng việc xây dựng hệ thống tư pháp mạnh và độc
lập, các quốc gia khác theo truyền thống Civil Law như Pháp, Đức cũng
tập trung cho một cơ quan tư pháp mạnh, đủ đáp ứng được nhu cầu cũng như
sức ép từ các thế lực khác. Mặc dù áp dụng thể chế tam quyền phân lập
cứng (Hoa Kỳ) hay mềm dẻo (Vương quốc Anh) thì tư pháp vẫn được đáp ứng
các điều kiện để có thể độc lập trong các phán quyết của mình. Tại Hoa
Kỳ, kể từ sau phán quyết của John Marshall năm 1803 về vụ Marbury kiện
Madison, ông đã thiết lập sự cân bằng trên thực tế của tư pháp với hai
ngành quyền còn lại, khẳng định Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ hiến pháp và
kiểm soát hành vi của Chính phủ. Theo truyền thống phương Tây, quyền tư
pháp được giao cho các thẩm phán độc lập (quy định tại Điều III Hiến
pháp Liên bang năm 1787). Theo truyền thống Common Law, thẩm phán không
phải là thẩm phán chuyên nghiệp, không nhất thiết thẩm phán phải được bổ
nhiệm từ những luật gia, thẩm phán giữ chức vụ suốt đời. Như vậy, người
Mỹ đã vận dụng cả việc phân lập cấu trúc bộ máy lẫn việc tuyển lựa kỹ
càng các thẩm phán để tạo ra một cơ chế xét xử độc lập cao với chính
quyền và cả dư luận.
Ở
nước Anh ngày nay không tạo lập một cơ chế phân quyền cứng như Mỹ, hệ
thống tư pháp ở Anh có hai đặc điểm nổi bật: Một là, đội ngũ cán bộ tư
pháp thống nhất, các luật gia và thẩm phán đều được đào tạo như nhau.
Hai là, cơ chế phân chia Tòa án sơ cấp và Tòa án cao cấp, chỉ các Tòa án
cao cấp mới có thẩm quyền xét xử chung và được hưởng một quy chế đặc
biệt đảm bảo sự độc lập và uy tín của thẩm phán; từ những năm 1990 thì
thẩm quyền chung đã được trao cho một số Tòa án sơ cấp. Thẩm phán của
các Tòa án cao cấp chỉ bị bãi miễn khi có yêu cầu của cả Thượng viện và
Hạ viện, thẩm phán của các Tòa sơ cấp chỉ bị bãi miễn trong trường hợp
phạm lỗi nghiêm trọng [8].
Hệ
thống tư pháp ở Việt Nam được đặc trưng bởi hai cơ quan là Tòa án (cơ
quan xét xử) và Viện kiểm sát (cơ quan công tố và giám sát tư pháp). Cả
Tòa án và Viện kiểm sát đều được tổ chức dựa trên sự phân cấp lãnh thổ
hành chính. Có Tòa án tối cao và Tòa án cấp cao cho toàn quốc gia, Tòa
án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện tương ứng với các cấp hành chính, ở cấp
hành chính thấp nhất (cấp xã) không tổ chức Tòa án. Nhiệm kỳ của Chánh
án Tòa án tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội; chế độ bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của thẩm phán, chế độ bầu cử và nhiệm kỳ
của Hội thẩm do Luật Tổ chức tòa án quy định. Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”. Việt Nam cũng ghi nhận về yêu cầu độc lập của tư pháp trong
cả Hiến pháp, nhưng thực tế tổ chức bộ máy tư pháp và cách tuyển lựa
thẩm phán hiện nay dẫn đến tư pháp là một ngành vừa yếu, lại vừa thiếu,
do đó, yêu cầu về sự độc lập của tư pháp chỉ minh chứng trên quy định.
Sự
khác biệt lớn giữa Common Law và hệ thống pháp luật Việt Nam là đảm bảo
một thiết chế tư pháp độc lập, đây là căn nguyên của một hệ thống pháp
luật có chất lượng. Bởi bản thân các đạo luật sẽ không thể trở thành
luật và không đem lại công bình nếu không thông qua sự phán quyết của
các vị quan tòa công minh.
Thứ năm, vấn đề bảo hiến
Bảo
hiến không đơn thuần là kiểm tra xem một văn bản pháp luật có trái với
Hiến pháp không? Thông qua việc kiểm hiến sẽ kiểm soát các hành vi của
Chính phủ, thậm chí là hành vi của nhà lập pháp. Việc bảo hiến hiệu quả
sẽ bảo vệ được dân chúng trước hành vi lạm dụng quyền lực của chính
quyền cũng như tạo được hệ thống các văn bản thống nhất, đảm bảo quyền
lợi của các bên trong quan hệ pháp luật. Hướng đến một cơ chế kiểm hiến
hiệu quả là hướng đến một hệ thống pháp luật đề cao pháp quyền, đề cao
các giá trị con người và một nhà nước hiệu quả.
Ở
Việt Nam hiện không có tố tụng hiến pháp, mặc dù có một vài thiết chế
kiểm soát pháp luật từ Quốc hội nhưng không phát huy tác dụng. Một hệ
thống pháp luật có số lượng văn bản khá đồ sộ, khoảng 13.500 văn bản quy
phạm pháp luật còn hiệu lực thi hành [9] và được bổ sung hàng ngày bởi
tất cả các cơ quan có thẩm quyền ban hành luật. Việc thiếu một cơ chế
kiểm hiến vì bất cứ lý do gì cũng đang làm cho trật tự pháp lý gặp phải
những bất cập như truyền thông đưa tin, tạo nên những phản ứng không tốt
từ phía xã hội. Việt Nam đã xây dựng quy trình tố tụng trong các lĩnh
vực về dân sự, hình sự, hành chính, kinh tế, lao động, nhưng tố tụng
Hiến pháp thì vẫn chỉ là kết quả nghiên cứu của các nhà luật học. Việc
ban hành chồng chéo hay lẫn lộn về thẩm quyền vẫn đang hàng ngày diễn ra
mà không hứa hẹn sẽ được chấm dứt khi nào là một thiệt hại rất lớn cho
xã hội, cả về phương diện tư duy lập pháp.
Hiến
pháp ở Anh là sự tổng hợp tất cả các yếu tố pháp lý có tính ổn định
cao, cộng với một cơ chế tố tụng chặt chẽ đã giúp cho hệ thống pháp luật
hiệu quả và dân chủ. Hoa Kỳ là một hình mẫu về cơ chế kiểm hiến, chức
năng kiểm hiến được trao cho Tòa án các cấp, việc kiểm hiến được đặc
trưng bởi các vụ việc cụ thể và đảm bảo thi hành phán quyết của Tòa án
nghiêm minh.
Sự
khác biệt đặc trưng giữa Common Law và truyền thống pháp lý Việt Nam
không nằm ở việc có thiết lập Tòa án Hiến pháp hay không, mà ở tư duy
tôn trọng trật tự pháp lý và thiết lập cơ chế tố tụng hiệu quả bởi bộ
máy tư pháp độc lập, nghiêm minh. Đem ra vài sự so sánh trên đây để hy
vọng sự thay đổi và sự cải cách mạnh mẽ của toàn xã hội trong một tương
lai gần.
Nguyễn Quang Đức
Khoa Luật - ĐH Quốc gia Hà Nội
Chú thích:
[1] Michel Fromont, Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.130.
[2]
Đổi mới là một chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội do
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 80. Chính sách đổi mới
được chính thức thực hiện từ Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ 6, năm 1986. Như vậy, thuật ngữ đổi mới trong bài viết có thể được
hàm nghĩa về thời gian là năm 1986.
[3]
Peter J. Messitte, Hệ thống thông luật so với hệ thống luật Châu Âu lục
địa, Phương thức hoạt động của Tòa án Hoa Kỳ, Nxb. Văn hóa - Thông tin,
tr.42.
[4] Réne David, Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr.208.
[5] Bài giảng của PGS.TS. Ngô Huy Cương, Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội.
[6] Réne David, Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr.166.
[7] Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr.83.
[8] Michel Fromont, Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.137.
[9] Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam, Trung tâm tin học Văn phòng Quốc hội.