Con gái 20 tháng tuổi của viên phi công nổi tiếng Mỹ đã bị bắt cóc tại nhà riêng, đòi tiền chuộc qua bức thư ở bậu cửa.
Nổi tiếng vì là người đầu tiên hoàn thành chuyến bay không dừng băng qua
Thái Bình Dương, phi công Charles Lindbergh được nhận Huân chương danh
dự - huân chương cao quý nhất của quân đội Mỹ. Nhưng chính sự nổi tiếng
này đã dẫn tới tấm bi kịch của gia đình anh nhiều năm sau đó.
Tối 1/3/1932, đứa con 20 tháng tuổi của anh bị bắt cóc tại nhà riêng ở
New Jersey, Mỹ. Kẻ bắt cóc để lại lá thư đòi tiền chuộc 50.000 USD tại
bậu cửa sổ, nếu muốn đứa trẻ được trả về nguyên vẹn.
Tới hiện trường, cảnh sát không tìm thấy thêm dấu vết gì ngoài một chiếc
thang và một chiếc đục gỗ. Tuy vậy, cả lá thư đòi tiền chuộc và hai đồ
vật này đều không có dấu vân tay.
Mẩu giấy đòi tiền chuộc được viết tay ngắn gọn, có nhiều chỗ sai trong
đánh vần và ngữ pháp. Ở cuối thư có hai vòng tròn xanh giao nhau bao
quanh một vòng tròn đỏ, có một lỗ nằm giữa vòng tròn đỏ và hai lỗ nữa ở
hai bên. Nhận định ban đầu về lá thư cho thấy người viết không nói sõi
tiếng Anh và có khả năng là người Đức, dựa trên các lỗi sai trong cách
phát âm.
Lá thư có cách phát âm đặc trưng cho người Đức nói tiếng Anh. Ảnh: Thegrammarnob.
|
Sau khi vụ việc đưa tin rộng rãi, ông John F. Condon - thầy giáo nghỉ
hưu được vị nể tại New York - đã treo thưởng 1.000 USD cho kẻ bắt cóc
nếu hắn đem trả đứa trẻ. Ngay sau đó, Condon nhận được bức thư nặc danh
tự xưng là kẻ bắt cóc, yêu cầu ông làm trung gian giữa hắn và Charles
Lindbergh.
Tuyệt vọng, Charles Lindbergh quyết định tuân theo yêu cầu của kẻ tống
tiền. Condon và người trong thư hẹn gặp nhau tại một nghĩa trang trong
vùng. Trong buổi gặp, Condon thấy giọng nói của kẻ bắt cóc “lơ lớ không
sõi” nhưng không nhìn rõ mặt vì hắn luôn đứng trong bóng tối. Kẻ này
khẳng định con tin vẫn an toàn và sẽ gửi lại bộ áo ngủ của đứa trẻ để
chứng minh.
Sau đó ít ngày, ngày 16/03/1932, Condon nhận được bưu kiện, trong đó có
chứa bộ áo ngủ trẻ con. Sau khi Charles Lindbergh xác minh đây đúng là
bộ áo của con mình, Condon gửi tin nhắn cho kẻ bắt cóc với nội dung:
“Tiền đã có đủ. Không cảnh sát. Không mật vụ. Tôi đi một mình, như lần
trước”. Ngày 1/4, kẻ bắt cóc gửi thư cho Condon, hẹn ngày giờ trao tiền.
Charles Lindbergh chuẩn bị tiền trong một chiếc hộp gỗ được làm thủ công
đặc biệt để dễ xác minh sau này. Ngoài ra, tiền giấy tuy không được
đánh dấu nhưng số sê ri đã được ghi chép lại.
Ngày 2/4, sau khi đưa tiền cho kẻ bắt cóc, Condon được cho biết sẽ gửi
đứa trẻ cho hai người phụ nữ vô tội. Nhưng trái với dự tính, vào ngày
12/5 cùng năm, xác đứa trẻ được tìm thấy gần nhà của gia đình, chỉ cách
vài dặm. Khám nghiệm tử thi kết luận đứa trẻ bị đập vào đầu.
Không phát hiện ra thêm manh mối gì, cảnh sát chuyển hướng tập trung
truy tìm dấu vết của khoản tiền chuộc. Cơ quan điều tra được cung cấp
thông tin vào ngày 18/9/1934 khi nhận tờ tiền từ một người khách khả
nghi vào mua xăng, nhân viên trạm xăng đã cảnh giác và ghi nhanh biển số
xe vào cạnh tờ tiền. Đây chính là tờ tiền có số sê ri trùng với tiền
chuộc bị đánh dấu.
Lần theo biển số xe, cảnh sát phát hiện ra chủ xe là Richard Hauptmann –
một người nhập cư có quốc tịch Đức, từng có tiền án. Cảnh sát tìm thấy
14.000 USD tiền chuộc trong nhà của hắn.
Trong quá trình điều tra, bên công tố nhận ra có rất ít chứng cứ trực
tiếp buộc tội Hauptmann nên mời chuyên gia chữ viết Albert Osborn thẩm
định những lá thư đòi tiền chuộc và so sánh với thư từ cá nhân của
Hauptmann.
Chữ ký của Hauptmann và chữ ký phục dựng từ lá thư đòi tiền. Ảnh: FBI.
|
Theo Thegrammarsnob, để khách quan nhất, Osborn quyết định kiểm
tra nghi phạm như sau: Soạn ra một đoạn văn bản trong đó có chứa từ
khóa, câu văn và con số giống với lá thư đòi tiền chuộc, ông yêu cầu
Hauptmann tự tay chép lại nội dung ấy. Kết quả so sánh sau đó cho thấy
nhiều điểm tương đồng giữa hai người viết.
- Một số từ luôn bị đánh vần và viết sai như: “not” bị viết thành
“note”, “our” thành “ouer”, “place” thành “plase” và “money” thành
“mony”;
- Cách viết chữ “x” và chữ “t” rất lạ.
- Chữ “o” luôn bị hở, không thành một vòng tròn khép kín;
- Chữ “t” luôn không có nét gạch ngang.
Với sự trợ giúp của chuyên gia phân tích chữ viết Osborn, Hauptmann cuối
cùng đã bị kết tội và phải ngồi ghế điện vào năm 1936 về hành vi bắt
cóc và giết hại trẻ em. Cho tới lúc chết, hắn vẫn không nhận tội.