Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

Đề tài: Reentry permit - Phần 2

Darren Nguyen Ngoc Chuong, Esq.

 Luật Sư Darren Nguyen Ngoc Chuong là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất tại Orange County, California được luật sư Đoàn Tiểu Bang California công nhận chuyên môn về ngành Luật Di Trú Hoa Kỳ. Hiện nay California có trên 254,000 luật sư nhưng chỉ có 209 luật sư có bằng chuyên môn về Luật Di Trú. Ngoài ra, Luật Sư Darren Nguyen Ngoc Chuong từng phục vụ lâu năm tại Sở Di Trú Hoa Kỳ (INS) nên rất có kinh nghiệm trong việc thiết lập hồ sơ và thường đại diện thân chủ trước các tòa án di trú. Ông là một luật sư đầy kinh nghiệm và uy tín, chuyên trách giải quyết và phục vụ đồng hương Việt Nam về lãnh vực di trú nhiều năm tại California và khắp các tiểu bang Hoa Kỳ.


Như tôi đã trình bày vào kỳ trước, thường trú nhân nhập cảnh Hoa Kỳ được chia ra làm 2 loại: Loại thứ nhất là “thường trú nhân trở về” (tức là returning LPR) và loại thứ hai là “thường trú nhân xin nhập cảnh.” Sự khác biệt của hai loại là: “thường trú nhân trở về” không cần xin phép nhập cảnh cho nên những điều luật cấm nhập cảnh không được áp dụng. Nhưng “thường trú nhân xin nhập cảnh” vì đương đơn đang xin nhập cảnh, Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh. “Thường trú nhân trở về” chỉ cần có giấy thẻ xanh hoặc reentry permit. “Thường trú nhân xin nhập cảnh” là “thường trú nhân trở về” đã vi phạm một trong những trường hợp sau đây:
1. Bỏ rơi sự thường trú của đương sự.
2. Đã vắng mặt ở Hoa Kỳ liên tục hơn 180 ngày.
3. Phạm pháp trong thời gian vắng mặt ở Hoa Kỳ, tức là phạm pháp ở ngoài Hoa Kỳ.
4. Rời khỏi Hoa Kỳ trong khi đang trong quá trình xét xử để trục xuất.
5. Đã bị án những tội nêu trong phần 212(a)(2) của Bộ Luật Di Trú như: “Crimes of Moral Turpitude” như là ăn cắp (theft), gian lận (fraud), bạo động trong gia đình (domestic violence) v.v...; bị án 2 tội trở lên và tổng cộng thời gian án tù 5 năm trở lên; bị án việc buôn lậu ma túy; bị án mãi dâm; bị án việc chuyên chở người bất hợp pháp vào Hoa Kỳ, v.v...
6. Có dự tính nhập cảnh Hoa Kỳ ngoài những cửa khẩu chính thức công nhận bởi nhân viên Sở Di Trú hoặc đã bị từ chối nhập cảnh Hoa Kỳ.
Như quí bạn đọc thấy trong trường hợp thứ hai, thường trú nhân vắng mặt ở Hoa Kỳ liên tục hơn 180 ngày (tức 6 tháng) sẽ bị coi là “thường trú nhân xin nhập cảnh” và Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh. Cũng có thể vì trường hợp thứ hai này mà chúng ta nghe nhiều người nói “thường trú nhân về Việt Nam dưới 6 tháng không cần reentry permit.” Nhưng câu nói đó không hoàn toàn đúng sự thật vì thường trú nhân vắng mặt Hoa Kỳ dưới 6 tháng vẫn có thể bị Sở Di Trú không cho phép nhập cảnh. Ngoài sự chứng minh đương đơn là thường trú nhân, đương đơn phải là người không có ý định bỏ rơi sự thường trú của mình. Vấn đề chính là người thường trú nhân phải chứng minh rằng họ không bỏ rơi sự thường trú của họ và những yếu tố để chứng minh người thường trú nhân có bỏ rơi sự thường trú của họ hay không là: Liên hệ gia đình ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, tài sản ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, việc làm ở trong và ở ngoài Hoa Kỳ, Hoa Kỳ có phải chính thức được gọi là nhà hay không, lý do rời khỏi Hoa Kỳ, và thời gian ở ngoài Hoa Kỳ, v.v... Thẻ xanh hoặc reentry permit, chỉ chứng minh rằng đương đơn là thường trú nhân. Nếu Sở Di Trú có chứng cớ là đương đơn bỏ rơi sự thường trú của họ, dù đương đơn có thẻ xanh đi dưới 6 tháng hoặc có reentry permit vẩn bị từ chối nhập cảnh.
Tôi đơn cử một vài trường hợp đã xảy ra. Trường hợp thứ nhất là một thường trú nhân rời Hoa Kỳ 3 tháng, trở về lại Hoa Kỳ 1 tháng, rồi lại rời Hoa Kỳ 3 tháng nữa v.v... Như vậy người thường trú nhân này ở ngoài Hoa Kỳ nhiều hơn là ở tại Hoa Kỳ, không có tài sản ở Hoa Kỳ, không có việc làm ở Hoa Kỳ, không khai thuế ở Hoa Kỳ. Khi người thường trú nhân này trở về Hoa Kỳ, Sở Di Trú có thể từ chối không cho người thường trú nhân này nhập cảnh và đưa ra tòa để trục xuất, vì người thường trú nhân này đã bỏ rơi sự thường trú của họ.
Trường hợp thứ hai là thường trú nhân có việc làm ở Hoa Kỳ, làm chủ một căn nhà ở Hoa Kỳ, khai thuế hàng năm ở Hoa Kỳ và có vợ và con ở Hoa Kỳ. Người thường trú nhân này đi Việt Nam 9 tháng mới trở về Hoa Kỳ. Dù là người thường trú nhân này đi quá 6 tháng và không có reentry permit, họ vẩn được nhập cảnh Hoa Kỳ vì họ là thường trú nhân không có ý định bỏ rơi sự thường trú của họ.
Hai điển hình trên là cả hai người thường trú nhân đều rời Hoa Kỳ dưới 1 năm nhưng trường hợp thứ nhất đương sự bị đưa ra tòa trục xuất, trường hợp thứ hai đương sự không bị đưa ra tòa trục xuất như tôi đã trình bày ở trên.
Theo luật di trú hiện nay, thường trú nhân rời Hoa Kỳ trên 1 năm, Sở Di Trú cho là người thường trú nhân đó đã bỏ rơi sự thường trú của họ. Nhưng có sự khác biệt giữa thẻ xanh và reentry permit là khi thường trú nhân có reentry permit (mà reentry permit thường có giá trị 2 năm), Sở Di Trú không thể dựa vào thời gian vắng mặt tại Hoa Kỳ khi reentry permit còn giá trị để xét người thường trú nhân đó có bỏ rơi sự thường trú của họ hay không. Sở Di Trú phải có lý do chính đáng, có bằng chứng cụ thể theo những yếu tố tôi đã trình bày trên để chứng minh rằng người thường trú nhân đó đã bỏ rơi sự thường trú của họ, thì khi đó Sở Di Trú mới có quyền đưa ra tòa trục xuất.
Để tóm tắt lại, thường trú nhân rời Hoa Kỳ thường xuyên nên có reentry permit và không nên đi quá 6 tháng. Thêm vào đó, nên để ý những yếu tố Sở Di Trú dùng để chứng minh thường trú nhân bỏ rơi sự thường trú của họ.
Quí bạn đọc nên lưu ý, những điều tôi đã trình bày trên chỉ nói về vấn đề thời gian rời Hoa Kỳ. Nhưng thời gian chỉ là một trường hợp trong sáu trường hợp nêu trên. Nếu thường trú nhân bị án như nêu trong trường hợp thứ năm, dù rời Hoa Kỳ một ngày vẫn bị coi là “thường trú nhân xin nhập cảnh” và Sở Di Trú được quyền áp dụng những điều luật cấm nhập cảnh với người thường trú nhân đó. Hiện nay Sở Di Trú chấp hành luật di trú hết sức khắc khe. Những thường trú nhân có tiền án không nên rời khỏi Hoa Kỳ trong thời gian khó khăn này. Nếu vì tình cảnh bắt buộc phải rời khỏi Hoa Kỳ, nên liên lạc với một luật sư am tường về luật di trú để tìm hiểu sự lợi hại khi nhập cảnh trở lại Hoa Kỳ.

Bản tin chiếu khán
Theo sự yêu cầu của quí bạn đọc, sau đây là bản thông tin chiếu khán cho tháng 12 năm 2015.
Ưu tiên 1 - priority date là ngày 1 tháng 4 năm 2008, tức là ưu tiên được dành cho những người con trên 21 tuổi chưa có gia đình của công dân Hoa Kỳ.
Ưu tiên 2A - priority date là ngày 15 tháng 6 năm 2014, tức là ưu tiên được dành cho vợ, chồng, hoặc con độc thân dưới 21 tuổi của thường trú nhân.
Ưu tiên 2B - priority date là ngày 1 tháng 3 năm 2009, tức là ưu tiên được dành cho con độc thân trên 21 tuổi của thường trú nhân.
Ưu tiên 3 - priority date là ngày 1 tháng 7 năm 2004, tức là ưu tiên được dành cho con đã có gia đình của công dân Hoa Kỳ.
Ưu tiên 4 - priority date là ngày 22 tháng 3 năm 2003, tức là ưu tiên được dành cho anh, chị hoặc em của công dân Hoa Kỳ.
Quí vị có thể tự theo dõi bản thông tin chiếu khán cho hàng tháng tại website của Tổ Hợp Luật Sư Nguyen & Luu, Llp tại: http://www.nguyenluu.com/vn/vnbulletin/2015-12%20luatditru_banchieukhan_dienthannhan.html
Mọi thắc mắc xin liên lạc: Luật Sư Darren Nguyễn Ngọc Chương hoặc Luật Sư Lưu Trọng Cẩm Thương của Tổ Hợp Luật Sư Nguyễn & Lưu, Llp địa chỉ số 1120 Roosevelt, Irvine, CA 92620. Website www.NguyenLuu.com. Điện thoại (949) 878-9888.